Xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Để thực hiện có hiệu quả và thực chất chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng
viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”; một trong những vấn đề mang tính căn cốt là phải xây dựng chuẩn
mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
lấy đó nền tảng, tạo sức mạnh nội sinh để mỗi cán bộ, đảng viên đấu tranh chống
ảnh hưởng tiêu cực, những thói hư tật xấu, xứng đáng là đạo đức, là văn minh,
là người lãnh đạo trung thành và tận tụy của nhân dân.
NHỮNG CHUẨN MỰC CỦA ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG
Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ được
coi là những điều quy định làm căn cứ để đánh giá phẩm chất, nhân cách của
người đảng viên, để xem người đó có xứng đáng là thành viên trong đội tiên
phong lãnh đạo của giai cấp công nhân, xứng đáng đảm nhận trọng trách với sự
nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những lãnh
tụ cách mạng, những nhà tư tưởng quan tâm và bàn luận nhiều nhất vấn đề đạo
đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng. Trên cơ
sở xem xét một cách toàn diện, các lĩnh vực hoạt động của đời sống, trong các
mối quan hệ và bản chất của con người, Hồ Chí Minh đã nêu lên chuẩn mực, những
giá trị chung nhất, cơ bản nhất mang tính phổ quát của nền đạo đức mới - đạo
đức cách mạng.
Người khái quát nội hàm đạo đức cách mạng là:
“Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”(1);
“Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân”(2).
Người nêu bật những phẩm chất của người cách mạng cần được bồi đắp là: nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm và khẳng định: “Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó
không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải
vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài
người”(3). Như vậy, chuẩn mực đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh
không nằm ngoài những yêu cầu trong các chuẩn mực, hành vi đạo đức thông
thường, mà là sự đòi hỏi cao hơn, trách nhiệm hơn đối với cái chung và trách
nhiệm xã hội, trách nhiệm với sự nghiệp cách mạng.
Trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế,
người đảng viên chịu không ít những tác động tiêu cực, trong đó tác động
trực tiếp và mạnh nhất đối với cán bộ, đảng viên chính là mặt trái của quyền
lực, mặt trái của kinh tế thị trường, của hội nhập quốc tế.Cần đặc biệt lưu ý
là mặt trái của quyền lực kết hợp với mặt trái của kinh tế thị trường, đã tạo
thành một sự cộng hưởng gây nên những tiêu cực, suy thoái về đạo đức trong cán
bộ, đảng viên hết sức nghiêm trọng. Tình hình đó đòi hỏi chuẩn mực đạo đức
của người đảng viên cần có sự phát triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và
yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Văn
kiện XIII của Đảng nêu yêu cầu phải “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn
thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh
cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”(4).
PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC TIÊU BIỂU CỦA MỖI CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Để thực hiện có hiệu quả và
thực chất chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết
ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo
đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; một trong những vấn
đề mang tính căn cốt là phải xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ,
đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó nền tảng, tạo sức mạnh nội
sinh để mỗi cán bộ, đảng viên đấu tranh chống ảnh hưởng tiêu cực, những thói hư
tật xấu, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, là người lãnh đạo trung thành và
tận tụy của nhân dân. Có thể đề xuất một số phẩm chất đạo đức tiêu biểu của mỗi cán bộ,
đảng viên hiện nay như sau:
Thứ nhất, bản lĩnh chính trị.
Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
là thành viên của một đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc. Sứ mệnh đó đòi hỏi Đảng và mỗi đảng viên phải rất vững vàng, độc lập,
sáng tạo trong việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách cũng như xây dựng nội bộ Đảng đoàn kết, vững mạnh; không dao động trước
khó khăn, thử thách.Bởi vậy, bản lĩnh chính trị là phẩm chất chính trị tuyệt
đối cần thiết đối với Đảng Cộng sản
cũng như đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên biểu
hiện ở nhiều phương diện, trong đó nổi bật là sự kiên định mục tiêu, lý tưởng
của cách mạng xã hội chủ nghĩa; sự trung thành với Tổ quốc, Đảng; sự vững vàng
trước mọi tình huống, sự quyết tâm phấn đấu, vượt mọi khó khăn gian khổ để hoàn
thành tốt nhiệm vụ, vì lợi ích của Đảng, của giai cấp, dân tộc và nhân
dân. Hồ Chí Minh căn dặn mỗi đảng viên “phải
giữ chủ nghĩa cho vững”(5), "Những
người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình
là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng
lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"(6). Kiên
định mục tiêu, lý tưởng, tức là vô luận lúc nào, vô luận việc gì, cán bộ, đảng
viên phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc ra trước, lợi ích của cá nhân lại
sau, nếu khi "lợi ích chung của Đảng
mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích
của cá nhân cho lợi ích của Đảng"(7). Người phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để
mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lạo động. “Suốt đời phục vụ
Đảng, phục vụ nhân dân"(8) là phẩm chất cao quý của người
cách mạng” - đó là “tính Đảng”, là nguyên tắc cao nhất của Đảng mà
mỗi đảng viên phải tuyệt đối chấp hành. Đó cũng là điều kiện tiên quyết hình
thành những tình cảm tốt đẹp, cao cả, nhiệt huyết cách mạng, tình cảm và ý chí
cách mạng của người đảng viên không ngừng phấn đấu cho sự nghiệp chung, phấn
đấu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đóng góp trí tuệ, sức lực, tài năng cho việc
xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó, Bộ Chính
trị (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 về chủ trương
khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung nhằm tạo cơ
chế, góp phần xây dựng và tăng cường bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, ham học hỏi, cầu tiến bộ.
Hồ Chí Minh đã từng lưu ý cán bộ, đảng
viên: “Nếu không chịu khó học thì không
tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng
nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là
bị đào thải, tự mình đào thải mình”(9). Công cuộc Đổi
mới mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện là một cuộc vận động mang tính
cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đó là một quá trình khó khăn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, chưa có mô hình
định sẵn. Mặt khác, trong thời đại công nghệ và toàn cầu hóa hiện nay, thế giới
đang có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh. Từ đó,
đòi hỏi Đảng Cộng sản lãnh đạo sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tiềm
lực tư tưởng, khoa học mạnh mẽ ở trình độ cao của trí tuệ xã hội và thời đại,
trong đó đảng viên phải là người có học thức, có năng lực trí tuệ và sáng tạo,
có tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ.
Cầu tiến bộ, ham học hỏi là phẩm chất đạo
đức cách mạng rất căn bản, bởi chỉ khi mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng học
tập, nâng cao trình độ mọi mặt thì Đảng mới không bị lạc hậu, mới đủ sức mạnh
trí tuệ để lãnh đạo dân tộc thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình. Phẩm chất
này đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải nhanh chóng nắm bắt kiến thức khoa học hiện
đại, trước hết là trong lĩnh vực hoạt động của mình, bắt kịp những thành tựu
mới trong lĩnh vực chuyên môn mà mình đảm nhiệm. Phẩm chất này đòi hỏi mỗi
người phải chống lại thái độ chây lười, ngại học tập, nâng cao trình độ, thoả
mãn với vốn kiến thức đã có, coi thường khoa học, lý luận, đề cao kinh nghiệm,
chống lại tình trạng cán bộ, công chức, đảng viên mà không thành thạo chuyên
môn, chức trách, công việc được giao, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như sự tin tưởng của nhân
dân với cán bộ, đảng viên. Xã hội càng hiện đại càng đòi hỏi trình độ kiến thức
cao. Với sự nỗ lực học tập không ngừng, cán bộ, đảng viên mới có đủ khả năng
lãnh đạo, quản lý xã hội phát triển.
Thứ ba, giữ vững kỷ luật Đảng và nghiêm chỉnh
thực thi pháp luật của Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta tuy
nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật”(10).
Người yêu cầu “Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”(11). Là đảng viên cộng sản, thì khi nào và
ở đâu cũng phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức Đảng, phải hành động
theo phạm vi kỷ luật của tổ chức. Đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật
của Đảng mà còn phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể
cách mạng, của nhân dân, bởi “kỷ luật của chính quyền, của đoàn thể, nhân dân
và Đảng cũng là một”(12). Đối với cán bộ, đảng viên càng có công thì
càng phải khiêm tốn, đảng viên giữ vị trí càng cao, càng phải gương mẫu và nếu
mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc. Trong bất kỳ trường hợp nào,
mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân
trước pháp luật, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng
ngoài kỷ luật”(13). Mọi đảng viên có quyền trình bày ý kiến riêng
của mình. Song, khi đã có nghị quyết của tập thể thì phải làm theo nguyên tắc
thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức. Phục tùng kỷ luật, đó là
“bổn phận”, là “nghĩa vụ” của đảng viên, ngược lại “không giữ vững kỷ luật của
Đảng, không kiên quyết chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, không thiết
tha quan tâm đến lợi ích của Đảng - là trái với nghĩa vụ của đảng viên”(14).
Ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên phải được
thể hiện cả trong suy nghĩ lẫn trong hành động, cả trong cách nói lẫn trong
giao tiếp, ứng xử hàng ngày và trong công việc. Đảng viên phải gương mẫu chấp
hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, sự phân công, điều động của tổ chức; kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất đặc biệt
là bệnh tham ô, tham nhũng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất của tham ô, tham
nhũng là ăn cắp của công, là nhũng nhiễu, gian lận, đục khoét nhân dân, là tham
lam, là trộm cướp. Trong công cuộc Đổi mới, từ Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta
đã nhận thức một cách sâu sắc thực trạng và những tác hại sâu sắc của căn bệnh
này: “Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang
cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình
và làm giảm lòng tin trong nhân dân (...). Tình trạng tham nhũng, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên là rất nghiêm trọng”(15). Văn kiện Đại hội XIII thẳng
thắn nêu lên khuyết điểm, hạn chế trong Đảng “tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống; biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn phức tạp… Thực hiện trách nhiệm nêu
gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”(16).
Bởi vậy, bên cạnh việc nêu cao đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên thì
việc tăng cườngcông tác kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật của Đảng; xây
dựng và thực thi hệ thống pháp luật nghiêm minh là biện pháp cực kỳ cần thiết
nhằm làm trong sạch hóa đội ngũ cán bộ.
Tăng cường ý thức kỷ luật không có nghĩa là
thủ tiêu sự sáng tạo cá nhân của các cán bộ, đảng viên, đặc biệt trong công
cuộc đổi mới toàn diện hiện nay rất cần tư duy, nhận thức mới có tính đột phá,
tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, nhanh chóng đời sống kinh tế xã hội. Song
điều đó không có nghĩa đảng viên có thể là vượt qua các nguyên tắc, vi phạm các
quy chế của Đảng, đặt mình ra ngoài tổ chức, đứng trên tổ chức, vi phạm
các nguyên tắc tổ chức. Ý thức tổ chức, kỷ luật, đoàn kết nội bộ là một phẩm
chất tiên quyết của đạo đức cách mạng. Nó bảo đảm cho các phẩm chất khác có thể
thực hiện được trọn vẹn, đầy đủ và hoàn chỉnh.
Thứ tư, trọng dân, yêu dân, tin dân, gần dân,
học dân.
Đảng ta đã xác định chế độ chính trị của nước
ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh
vô địch của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Không phải ngẫu nhiên
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức
cách mạng, trau dồi quan điểm và thái độ đúng đắn đối với quần chúng, coi việc
tôn trọng, học hỏi, có quan hệ mật thiết với quần chúng là một vấn đề thuộc về
phẩm chất, tư cách, đạo đức của đảng viên.
Đảng ta là đảng cầm quyền, vì vậy, nhiều cán
bộ, đảng viên là những người lãnh đạo, quản lý. Cán bộ, đảng viên còn là cầu
nối giữa Đảng với quần chúng, là người tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước. Bởi vậy, có yêu
dân, có tin dân, có trọng dân, đảng viên mới hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,
mới tích cực lắng nghe ý kiến của nhân dân, mới có thể khơi dậy và phát huy sức
mạnh trí lực, nhân lực và tài lực của nhân dân. Có gần dân, đảng viên mới hiểu
đời sống xã hội thực tiễn phong phú, sinh động đang diễn ra; mới nắm bắt kịp
thời tâm tư, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân để đề ra các chủ trương,
biện pháp phù hợp cũng như làm cho dân hiểu, dân tin vào chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, có học hỏi dân, đảng viên mới mở mang, làm
giàu thêm hiểu biết của mình bằng trí tuệ sáng tạo và kinh nghiệm phong phú của
nhân dân.
Đương nhiên, trong quá trình phát huy dân chủ
phải chống thái độ theo đuôi quần chúng. Đặc biệt với sự bùng nổ công nghệ
thông tin, sự phổ biến rộng rãi của các mạng xã hội như hiện nay, một vấn đề
đưa có rất nhiều quan điểm, nhiều luồng ý kiến trái chiều nhau. Điều đó đòi hỏi
cán bộ, đảng viên với tư cách là người lãnh đạo quần chúng, cần phải có đủ tầm,
đủ tâm, đủ bản lĩnh để biết lắng nghe, chắt lọc những gì là thích hợp và đúng
đắn. Sâu xa hơn, mỗi cán bộ, đảng viên cần luôn phải tự ý thức một chân lý
hiển nhiên: có nhân dân thì mới có cán bộ, đảng viên; nhân dân bầu ra cán, trả
lương cho cán bộ; không "trọng" dân, tức là đã phản bội người đã bầu
mình, nuôi mình. Không “gần dân, trọng dân”, đó không chỉ là sự vi phạm đạo đức
đảng viên mà rộng hơn là sự tha hóa của đạo đức “làm người”.
Thứ năm, phòng chống chủ nghĩa cá nhân.
Ngay sau khi Đảng trở thành Ðảng cầm quyền,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trước hoàn cảnh mới, người cán bộ, đảng viên
rất dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân là trong
bất cứ công việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết, muốn cho
mọi người vì mình trước khi mình vì mọi người. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi
trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham
danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem
khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, mệnh lệnh, v.v.... Từ đó,
Người đặt ra nhiệm vụ “xoá sạch chủ nghĩa cá nhân”(17) là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên, liên tục trong công tác xây dựng Đảng.
Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
lãnh đạo duy nhất và nhất từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng có
điều kiện phát triển. Mục tiêu làm giàu bằng mọi giá, coi trọng lợi ích vật
chất đã và đang trở thành cái đích hướng tới của không ít người. Do vậy,
đối với cán bộ, đảng viên, nhất là đối với một số người có chức, có quyền nếu
thiếu tu dưỡng đạo đức cách mạng, họ rất dễ bị cám dỗ và sa ngã bởi lợi ích vật
chất "che mắt", việc lợi dụng chức quyền, thu vén cá nhân, tham
nhũng, làm giàu bất chính dẫn đến suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống,
biến chất về phẩm chất chính trị là hệ quả tất yếu. Chống chủ nghĩa cá nhân
hiện nay, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên luôn có ý thức phục tùng kỷ luật tập
thể, biết đặt “việc công, lợi ích công” lên trên hết và trước hết, kiên quyết
loại bỏ ham muốn không chính đáng, làm phương hại đến lợi ích tập thể, lợi ích
của Đảng, của nhân dân và dân tộc.
Nêu cao chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá
nhân không có nghĩa là hy sinh lợi ích chính đáng của cá nhân, xóa bỏ cá tính
cá nhân. Chủ nghĩa tập thể kết hợp hài hoà quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích cá
nhân và lợi ích tập thể theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người. Giữ vững kỷ luật tập thể, tổ chức đồng thời tôn trọng sáng kiến cá
nhân, phát triển cá tính, phát triển nhân cách và năng lực sáng tạo, đóng góp
riêng của mỗi cá nhân. Làm được điều đó, mới có thể gắn bó, đoàn kết mọi người
trong tổ chức và tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng.
Ở bất kỳ giai đoạn nào, sự hoàn thiện đạo đức
trong Đảng với những tấm gương sáng về đạo đức của cán bộ, đảng viên luôn có
ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn đến những giá trị đạo đức của toàn xã hội, của
dân tộc. Từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa có một thực tế là, hệ thống thang giá trị chuẩn mực xã hội được
hình thành trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa đã và đang biến đổi. Bởi vậy, để thực hiện nhiệm vụ cao cả, cần thiết
nhưng hết sức khó khăn và phức tạp hiện nay là xây dựng Đảng về đạo đức, trước
hết Đảng Cộng sản Việt Nam phải định hướng những chuẩn mực đạo đức mà mỗi cán
bộ, đảng viên cần phải đạt được. Đạt được những chuẩn mực đó, sẽ làm trong sạch
Đảng, giải quyết những bức xúc của nhân dân, củng cố lại niềm tin của dân với
Đảng, nâng Đảng lên tầm cao mới, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của dân
tộc.
Nguồn:tuyengiao.vn