Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và những gợi mở hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh với trí thức, văn nghệ sĩ. Ảnh tư liệu.

Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình trí thức. Cụ thân sinh ra Người - cụ Nguyễn Sinh Sắc là một trí thức Nho học uyên bác, đã từng đỗ đạt rất cao trong hệ thống khoa cử nhà Nguyễn. Thuở thiếu thời, cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã theo học tại lớp học của nhiều nhà Nho danh tiếng ở quê hương, sau đó lại theo học ở nhà trường Pháp - Việt. Cậu sớm được nghe kể và trực tiếp tiếp xúc với nhiều nhà yêu nước thế hệ tiền bối, trong đó có nhiều vị là những trí thức lớn. Ở độ tuổi 18, thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã được biết đến là một người thầy luôn cổ vũ, động viên tinh thần hiếu học, tinh thần yêu nước trong học sinh. Năm 21 tuổi, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước, và chính ở thời điểm đó, Người thể hiện sự quan tâm sâu sắc của mình đối với vai trò của các nhà trí thức yêu nước Việt Nam thế hệ tiền bối khi đưa ra những nhận định, đánh giá về con đường cứu nước của họ. Trên hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã có cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều nhân sĩ, trí thức phương Tây. Khi ở Pháp, Người đã tham gia Câu lạc bộ Faubourg - Câu lạc bộ Ngoại ô, nơi sinh hoạt của nhiều trí thức Pháp đương thời; đã trực tiếp làm việc với nhiều trí thức Pháp trong Đảng Xã hội, v.v... Nguyễn Ái Quốc còn có mối quan hệ tốt đẹp với nhiều nhà trí thức yêu nước đến từ các nước thuộc địa, chẳng hạn những người thanh niên yêu nước Trung Quốc tham gia phong trào “Cần công, kiệm học”, và sau này, nhiều người trong số họ trở thành những nhà trí thức danh tiếng, những nhà lãnh đạo chính trị ưu tú. Trên hành trình trở về Việt Nam sau khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc lại có điều kiện làm quen với nhiều trí thức Liên Xô, Trung Quốc và một số quốc gia khác.

Đầu năm 1930, sau quá trình chuẩn bị công phu, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong văn kiện tại Hội nghị thành lập Đảng, thái độ đối với trí thức đã được tuyên bố rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”(1). Tháng 8-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám thành công. Công cuộc kiến thiết đất nước vừa bắt đầu thì thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam. Để tiến hành thành công sự nghiệp kháng chiến - kiến quốc, một trong những lực lượng quan trọng - trí thức yêu nước Việt Nam - đã được Hồ Chí Minh tập hợp và phát huy cao độ vai trò của họ. Hồ Chí Minh đã quy tụ được lực lượng trí thức đông đảo, bao gồm cả trí thức Nho học và trí thức Tây học, trí thức Việt Nam ở trong nước và trí thức Việt Nam ở nước ngoài, trí thức Giáo và trí thức Lương, trí thức người Kinh và trí thức người dân tộc thiểu số, v.v.. Cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, trí thức Việt Nam đã góp phần to lớn vào những thành công của sự nghiệp cách mạng Việt Nam theo ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn trân trọng những người trí thức chân chính, những người trí thức yêu nước, và ngược lại, những nhà trí thức chân chính, trí thức yêu nước cũng luôn dành sự trân trọng đối với Hồ Chí Minh.

Năm 1987, hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết số 24C/18.65, trong đó ghi nhận những đóng góp to lớn và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tôn vinh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Nghị quyết cũng khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người “đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại”. Trong “Nhà văn hoá kiệt xuất” Hồ Chí Minh, hiển nhiên có “Nhà trí thức kiệt xuất” Hồ Chí Minh. Là “một người kiêm cả công, nông và trí thức cách mạng”(2), Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc người trí thức Việt Nam. Ở địa vị người lãnh đạo cao nhất của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều chỉ dẫn quan trọng và có những quyết sách, những ứng xử thể hiện tinh thần trân trọng đối với những người trí thức chân chính, yêu nước. Trong bối cảnh không ít lãnh tụ cộng sản đương thời chưa nhận thức rõ và đối xử đúng với trí thức, thì hình ảnh nhà lãnh tụ Hồ Chí Minh yêu mến trí tuệ, quý trọng trí thức thật đặc biệt, độc đáo, khiến thế giới thán phục, ca ngợi.

Tư tưởng và phép ứng xử của Hồ Chí Minh đối với trí thức là một di sản có tính hệ thống và chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc. Di sản này đã được nghiên cứu ở nhiều công trình nghiên cứu. Trong phạm vi bài viết này, tôi tập trung đề cập một số phương diện trong hệ thống đó.

 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của sự “hiểu biết” đối với cách mạng Việt Nam

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, trí thức có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, trí thức là hiểu biết. Người chỉ rõ: “Trí thức là gì? Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra”(3). Hiểu biết, nhất là “hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội” có vai trò rất quan trọng đối với các cuộc cách mạng xã hội.

Khi Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, các phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam đều đã lần lượt thất bại. Cho đến trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trở thành chính đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của các nhà yêu nước Việt Nam vẫn chưa thành công. Giáo sư Trần Văn Giàu đã chứng minh, đó là sự thất bại của hệ tư tưởng phong kiến và sự bất lực của hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra. Rõ ràng, sự hiểu biết của những người yêu nước Việt Nam khi đó đã không ngang tầm yêu cầu giải phóng và phát triển đất nước.

Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam đi tìm đường cứu nước, mà thực chất là đi tìm một học thuyết “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất” khả dĩ làm vũ khí lý luận cho cách mạng Việt Nam, đồng thời, là vận dụng sáng tạo học thuyết đó để xây dựng nên lý luận về con đường giải phóng và phát triển dân tộc. Hành trình đó, không có gì khác hơn, chính là hành trình nâng tầm hiểu biết của cá nhân Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, và cũng chính là thông qua Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nâng tầm hiểu biết của dân tộc Việt Nam.

Năm 1923, trong bức thư gửi lại cho những người bạn cùng hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(4). Câu trả lời “đã rõ ràng” đối với Nguyễn Ái Quốc chính là đã thấy rõ lực lượng cách mạng Việt Nam không ai khác hơn chính là quần chúng nhân dân, và trong các nguồn sức mạnh dẫn dắt sự nghiệp cách mạng thì đứng đầu chính là sức mạnh của sự hiểu biết: quần chúng nhân dân chính là lực lượng đấu tranh giành tự do, độc lập, nhưng phải là quần chúng nhân dân đã được thức tỉnh, được tổ chức, được đoàn kết và được huấn luyện. Yếu tố “thức tỉnh” đứng hàng đầu!

Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, khi trả lời câu hỏi: Cách mạng trước hết phải có cái gì, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(5). “Vận động” chính là thức tỉnh và giác ngộ dân chúng, là nâng tầm hiểu biết của nhân dân, và để có thể làm được điều đó, chính đảng cách mạng phải là hiện thân của sự hiểu biết, phải “có chủ nghĩa làm cốt”, “trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Sau này, tổng kết lịch sử cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Chủ nghĩa Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”(6).

Có thể khẳng định rằng, trong suốt cuộc đời cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng quần chúng chỉ có thể làm thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, làm cho con người được sống trong một xã hội xứng với phẩm giá con người, khi quần chúng được dẫn dắt với sức mạnh của sự hiểu biết, của đoàn kết, và vì thế, vai trò của các hoạt động giác ngộ và tổ chức là vô cùng quan trọng. Điều đáng lưu ý ở đây là, hiểu biết hay đoàn kết, giác ngộ hay tổ chức đều là những sức mạnh và hoạt động thuộc về, riêng có ở con người, tức là nhân tính. Nhiều nhà triết học, từ Đông sang Tây, từ Cổ đến Kim, đã luận bàn về tính Người, về sự khác biệt giữa người và vật chính là ở những đặc trưng nhân tính này. Vậy là, có một triết lý cách mạng của Hồ Chí Minh: Sự nghiệp cách mạng giải phóng và phát triển con người với những mục tiêu mang tính nhân văn là sự nghiệp do chính nhân dân thực hiện và được dẫn dắt bởi những sức mạnh nhân tính. Đó là điểm độc đáo, là điểm khác biệt của nhà cách mạng Hồ Chí Minh so với nhiều nhà lãnh đạo chính trị khác. Và đây cũng là cơ sở, là mạch nguồn để đi sâu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức.

2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về trí thức 

Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm của Người về trí thức.

Quan niệm chung của Hồ Chí Minh cho rằng: Trí thức là lao động trí óc hay lao động trí thức  (trí thức được hiểu theo nghĩa như đã nêu trong mục 1 ở trên). Trong nhiều tác phẩm, Hồ Chí Minh dùng từ “lao động trí óc” và “trí thức” thay thế cho nhau và theo nghĩa phân biệt với “lao động chân tay”. Đây là cách quan niệm cổ điển, đã có lịch sử lâu đời và là sản phẩm của một trình độ phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất. Hồ Chí Minh sử dụng cách quan niệm đó, nhưng điều quan trọng là, Người đã dự báo rằng, xã hội loài người sẽ phát triển đến trình độ không còn sự phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay, khi mà những người lao động chân tay được trí thức hoá và những người trí thức sẽ trực tiếp lao động sản xuất vật chất. Cách nói “lao động trí thức” ít xuất hiện trong tác phẩm của Hồ Chí Minh, nhưng vẫn cần được chú ý. Người từng viết: “Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, là nhờ lao động. Xây nên giàu có, tự do, dân chủ cũng là nhờ lao động. Trí thức mở mang cũng nhờ lao động (lao động trí thức). Vì vậy lao động là sức chính của sự tiến bộ loài người”(7).

Từ quan niệm chung nói trên, Hồ Chí Minh tiếp cận trí thức từ hai góc tiếp cận cụ thể.

Một là, tiếp cận từ góc độ loại hình hoạt động lao động, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nghề mà trí thức tham gia. Người viết: “Lao động trí óc là ai? Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy, v.v..”(8). Như vậy, có thể xác định trí thức thông qua nghề nghiệp của họ, theo đó, những người hoạt động chuyên nghiệp trong một số lĩnh vực thì được gọi là trí thức. Đây là cách tiếp cận về hình thức hoạt động lao động, tuy mang tính mô tả, nhưng cũng rất hữu ích trong việc nhận diện trí thức. Trong bối cảnh hiện nay, khi định nghĩa trí thức, vẫn cần chú ý cách tiếp cận này của Hồ Chí Minh.

Hai là, tiếp cận từ góc độ chất lượng lao động, Hồ Chí Minh chỉ ra tiêu chí trình độ đào tạo về chuyên môn trong nhận diện trí thức, theo đó: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức”(9). Luận điểm này được Hồ Chí Minh nêu ra năm 1947. Vào thời điểm đó, học xong đại học là một trình độ học vấn rất cao và ít người có được trình độ đó. Như vậy, trí thức, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, có thể được xác định dựa trên trình độ học vấn cao. Tốt nghiệp đại học có thể là một thang đo, nhưng thang đo đó có thể thay đổi ở những chế độ giáo dục khác nhau. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định nhà Nho cũng là trí thức(10). Cái gọi là trình độ học vấn cao ở đây thể hiện chủ yếu ở mặt chất lượng, tức là mức độ hiểu biết khoa học tự nhiên/khoa học xã hội. Người trí thức không dựa trên tri thức kinh nghiệm, mà phải được đào tạo, phải nắm vững tri thức khoa học của lĩnh vực được đào tạo. Họ còn phải đi tiên phong về hiểu biết, về nhận thức cái mới, vượt trước nhận thức đương thời. Hồ Chí Minh gọi trí thức là những người “tiên tri tiên giác”: “Anh em văn hoá với trí thức là lớp tiên tri tiên giác, càng phải quyết tâm không chịu làm nô lệ”(11). Không có nhận thức vượt trước, theo Hồ Chí Minh, chưa xứng đáng là trí thức. Người chỉ rõ, một trong những điều phải tránh, đó là: “Trí thức mà không xét việc tương lai”(12).

Tuy nhiên, nói đến trí thức, Hồ Chí Minh không dừng lại ở tiêu chí về trình độ học vấn. Người còn đặc biệt chú trọng đến chất lượng hoạt động và chất lượng sản phẩm đầu ra trong hoạt động của trí thức.

Trước hết, về chất lượng hoạt động, người trí thức không chỉ có trình độ đào tạo cao về học vấn, chuyên môn, mà còn phải có năng lực thực hành, tức là phải có năng lực áp dụng tri thức chuyên môn vào thực tế. Hồ Chí Minh viết: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”(13). Áp dụng tri thức và thực tế chính là sử dụng tri thức chuyên môn được đào tạo với tính cách là một tư liệu lao động trực tiếp. Lao động với tư liệu lao động là tri thức, đó cũng là một tiêu chí quan trọng để phân biệt lao động trí thức với các loại lao động khác.
 
Về chất lượng sản phẩm đầu ra, lao động của trí thức trước hết phải là “sáng tác” và “phát minh”, hay nói cách khác là phải tạo ra những sản phẩm kết tinh trí tuệ sáng tạo của người lao động trí óc. Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh”(14); và: “Trí thức thi đua sáng tác, phát minh”(15), v.v..

Với quan niệm, văn hoá là “toàn bộ những sáng tạo và phát sinh” được con người tạo ra “vì lẽ sinh tồn và mục đích cuộc sống” của con người, hoạt động của người trí thức gắn liền với văn hoá dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ, “những nhà trí thức nước chúng tôi thiết tha với nền văn hóa dân tộc”(16), và yêu cầu những những người trí thức “không quản gian lao giúp dân học hỏi và mở mang nền văn hoá nước nhà”(17). Có thể thấy, mở mang nền văn hoá nước nhà là một tiêu chí đầu ra rất cao, phản ánh chất lượng sản phẩm hoạt động của trí thức.

Không chỉ đối với văn hoá, thước đo chất lượng hoạt động của trí thức, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, còn phải làm cho đất nước giàu mạnh. Nói chuyện với trí thức Việt kiều và du học sinh, Hồ Chí Minh yêu cầu họ “… gắng sức học tập nắm vững khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, để sau này về nước góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc ta mau chóng trở thành một nước giàu mạnh”(18).

Tóm lại, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, trí thức phải là trí thức hoàn toàn, tức là có trình độ học vấn cao, có năng lực nhận thức vượt trước, có năng lực áp dụng tri thức được đào tạo vào thực tiễn, tạo ra những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, kết tinh trí tuệ sáng tạo của người lao động trí óc, và những sản phẩm đó phải góp phần mở mang nền văn hoá nước nhà, làm cho đất nước giàu mạnh. Trí thức hoàn toàn như thế là tấm gương để xã hội noi theo, có sức ảnh hưởng, dẫn dắt đối với xã hội. Hồ Chí Minh viết: “Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có cái trách nhiệm nặng nề và vẻ vang, là làm gương cho dân trong mọi việc. Dân ta đã đấu tranh một cách rất dũng cảm. Lẽ tất nhiên giới trí thức phải hy sinh đấu tranh, dũng cảm hơn nữa, để làm gương cho nhân dân”(19). Trí thức như vậy, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng, ghi nhận, tôn vinh: “Dưới chế độ thực dân và phong kiến, những người lao động trí óc, những người trí thức chân chính, bị bọn thống trị biến thành những người làm thuê cho chúng, “sớm vác ô đi, tối vác về”. Sinh hoạt tuy phong lưu, nhưng về tinh thần thì mờ mịt. Dưới chế độ dân chủ mới, những người lao động trí óc, cũng như lao động chân tay, đều có dịp phát huy và phát triển tài năng của mình, nhằm mục đích phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vì vậy, họ được đồng bào kính trọng, được Chính phủ và Đoàn thể nêu cao”(20).

3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của trí thức

Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của trí thức đối với sự nghiệp cách mạng. Trong tiến trình phát triển của cách mạng, có những trí thức là sản phẩm của nền giáo dục cũ, có trí thức là sản phẩm của nền giáo dục mới. Nhưng dù là trí thức cũ hay trí thức mới, miễn là trí thức chân chính, thì đều rất đáng quý và có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

 Sự đánh giá cao vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng bắt nguồn từ triết lý về vai trò của sức mạnh nhân tính - sự biểu biết, về vai trò của việc thức tỉnh, giác ngộ nhân dân. Nếu nhân dân cần có sức mạnh của sự hiểu biết, của trí tuệ để từ chỗ là lực lượng tự phát, trở thành lực lượng tự giác, để có thể hoàn thành sự nghiệp cách mạng, thì trí thức, với tư cách là người có hiểu biết, là bậc tiên tri tiên giác, tức là những người có sứ mệnh tiếp thu tri thức, sáng tạo tri thức và truyền bá tri thức, trực tiếp đáp ứng nhu cầu đó của nhân dân, của cách mạng, càng trở nên vô cùng đáng quý, vô cùng quan trọng.

Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của trí thức đối với cách mạng. Người viết: “Trí thức Việt Nam đã gánh một phần quan trọng trong cuộc kháng chiến cứu quốc và gánh một phần quan trọng trong công việc kiến quốc. Hiện nay hầu hết nhân viên trong Chính phủ trung ương là người trí thức”(21); “Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”(22).

Từ chỗ thấy rõ và đánh giá cao vai trò của trí thức đối với cách mạng, Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan niệm độc đáo, cho rằng: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”(23). Cần phải khẳng định ngay rằng, quan điểm coi trí thức là nguồn vốn quy báu là một quan điểm rất hiện đại, thể hiện tư duy phát triển bền vững và tầm nhìn vượt thời gian của Hồ Chí Minh. Phải đến giữ thập niên 1960, trường phái kinh tế học về Vốn con người (Human Capital) mới xuất hiện, và kinh tế tri thức là câu chuyện của nửa cuối thể kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, nhưng ngay từ cuối thập niên 1940, Hồ Chí Minh đã coi trí thức là “vốn liếng quý báu” của dân tộc. Coi trí thức là một nguồn vốn quý báu, thì cách ứng xử với trí thức cũng sẽ khác, sẽ là sự trân trọng, đầu tư, quản trị và sử dụng một cách có hiệu quả trí thức, để từ vốn đẻ ra lãi. Cách tiếp cận kinh tế học đối với trí thức là cách tiếp cận rất có giá trị của Hồ Chí Minh, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Hồ Chí Minh còn nói đến nhiều vai trò cụ thể của trí thức, như vai trò của trí thức giáo dục trong giáo dục, đào tạo; vai trò của trí thức y tế trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; vai trò của trí thức kỹ thuật trong phát minh, chế tạo máy móc, v.v.. Chẳng hạn, đối với lĩnh vực sản xuất, Hồ Chí Minh viết: “… muốn tăng gia sản xuất rộng rãi và chóng có kết quả, thì chúng tôi cần có tư bản, trí thức và lao động… Địa vị những người trí thức ái quốc Việt Nam sẽ là cùng với toàn thể đồng bào, kiến thiết một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thống nhất và độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc”(24).

Tóm lại, với Hồ Chí Minh, trí thức có trài trò hết sức quan trọng, thể hiện trong mọi mặt, mọi lĩnh vực của đười sống xã hội.

4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về ưu điểm, khuyết điểm của trí thức và phép ứng xử với trí thức của những người cộng sản

Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất rõ điểm mạnh và điểm yếu của trí thức Việt Nam.

Về điểm mạnh, Hồ Chí Minh cho rằng, với nền tảng học vấn được đào tạo, với lòng tự tôn dân tộc rất cao, ý thức “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, lại cũng bị thực dân, đế quốc áp bức nặng nề, nên “trí thức Việt Nam có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng”(25). Trí thức lại là những người “có đầu óc dân tộc và vì có học thức nên xem được sách, biết được dân chủ, biết được lịch sử cách mạng, nhất là lịch sử cách mạng Pháp, nên dễ hấp thụ được tinh thần cách mạng”(26). Mặt khác, cũng vì “đã hiểu biết, trí thức ta dễ theo cách mạng, và vì vậy Đảng cách mạng phải dìu dắt, giúp đỡ trí thức của ta dựa vào phe cách mạng, phe công nông”(27). Hồ Chí Minh nhận xét: “Trí thức ta không còn là những người chỉ nằm trong cái tháp ngà và xa rời quần chúng. Ngày nay, trí thức ta là những người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công nông và cùng công nông ra sức xây dựng xã hội mới”(28). Từ đó, Người kết luận: “Thế là trí thức của ta, trí thức Việt Nam có ưu điểm đấy”(29).

Mặc dù khẳng định trí thức Việt Nam có nhiều ưu điểm, nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ những khuyết điểm của trí thức Việt Nam, đó là: Cá nhân chủ nghĩa, tính không kiên quyết, thái độ chờ đợi bàng quan, tính bảo thủ, óc làm thuê, ham địa vị, kiêu ngạo, v.v.. Chẳng hạn, về óc làm thuê của trí thức, Hồ Chí Minh viết: “Óc làm thuê: Đầu óc: “ăn cơm chúa múa tối ngày”. Không có đầu óc: cho mình cũng là một người quốc dân thì lợi ích của quốc dân mình phải chịu một phần, phải gánh một phần. Nước nhà có tiến bộ phải gánh vác một phần, phải đưa dân tộc nước nhà tiến bộ lên. Thái độ như trên là thái độ làm sao để không ai chê trách mình là được, là không thấy mình cũng là một bộ phận của người chủ của nước nhà”(30).

Những khuyết điểm đó, theo Hồ Chí Minh, là hậu quả của nền giáo dục thực dân và chế độ cũ để lại: “Những bệnh trên đây là bệnh chung của giai cấp tiểu tư sản và anh chị em trí thức bị văn hóa nhồi sọ của thực dân để lại”(31).

Những khuyết điểm đó có hại cho chính trí thức, hạn chế sự phát triển của họ, cản trở họ có đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì có khuyết điểm ấy nên nó ngăn trở mình không có được một chí khí cao thượng, một nhận thức mình là một bộ phận làm chủ của nước nhà”(32); “Chứng kiêu ngạo lên mặt rất có hại cho họ. Nó ngăn trở họ tiến bộ”(33).

Từ những quan niệm, quan điểm nói trên, phép ứng xử đối với trí thức, nói một cách khái quát theo tư tưởng Hồ Chí Minh là tôn trọng trí thức, trọng dụng trí thức.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, sự tuyên truyền mang tính xuyên tạc, bôi nhọ của các lực lượng phản động và cả sự chưa đúng mực trong nhận thức và hành động của một số cán bộ, đảng viên đã tạo nên một thành kiến không đúng là: Đảng, Nhà nước không tôn trọng, trọng dụng trí thức. Người viết: “Nhưng cũng do những hành động, thái độ của đảng viên, cán bộ trong cơ quan, đoàn thể làm anh em cán bộ ngoài Đảng, nhất là ở cơ quan chính quyền mà đa số là trí thức, có một thành kiến không đúng tưởng Đảng và Chính phủ không trọng trí thức. Mà chính anh em cán bộ cũng có cảm tưởng như vậy. Sự thực không phải như thế”(34).

Trên thực tế, Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn trọng trí thức: “Chính là những đảng cách mạng lại càng trọng trí thức: vì muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư, v.v.. Tóm lại cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức”(35).

Tuy vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh rất rõ ràng, trí thức mà Đảng, Nhà nước và nhân dân trọng là những trí thức hoàn toàn, trí thức chân chính. Người viết: “Nhưng trọng trí thức như thế nào? Không phải tất cả đều là trọng. Trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”(36); “Cố nhiên Đảng và Chính phủ rất quý trọng trí thức. Nhưng bây giờ thử hỏi quý trọng trí thức nào? Quý trí thức chịu khó, chịu khổ kháng chiến, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân… Nhưng đối với bọn đội lốt trí thức vì bơ sữa mà quên cả Tổ quốc, nhân dân, làm ô danh trí thức có nên coi trọng không? Đảng và Chính phủ cố nhiên không coi trọng bọn đội lốt trí thức theo giặc, có tội với nhân dân”(37).

Từ xưa đến nay, có những quan niệm cho rằng, đặc trưng của trí thức, sứ mệnh của trí thức là theo đuổi chân lý. Đối với họ, chỉ có chân lý là cao quý nhất. Và để có được chân lý, điều quan trọng nhất mà trí thức cần, là tự do tư tưởng. Đối với quan niệm này, chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là rất quan trọng: “Tự do tư tưởng. - Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”(38). Chỉ dẫn của Hồ Chí Minh cung cấp tiêu chí quan trọng để xác định chân lý, xác định mục đích, lý tưởng mà người trí thức chân chính phải theo đuổi; đồng thời, cung cấp luận cứ để đấu tranh, bác bỏ những quan niệm, đòi hỏi vô căn cứ, phi lịch sử và trái ngược với tinh thần dân chủ đích thực.

Khi nói đến quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn trọng trí thức, trọng dụng trí thức, có một điểm nhấn quan trọng. Đó là lòng tin. Hồ Chí Minh luôn có niềm tin sâu sắc vào cái tốt, cái thiện trong con người. Người cũng luôn tin tưởng rằng: “đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc”(39). Người tin rằng, “trí thức Việt Nam có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng”. Vì thế cho nên, trong thực tế, Hồ Chí Minh luôn tin tưởng giao phó trọng trách cho những nhà trí thức chân chính và chính niềm tin đó đã tạo nên động lực quan trọng để trí thức dấn thân và cống hiến cho cách mạng. Bài học về niềm tin, sự tôn trọng và trọng dụng của Hồ Chí Minh đối với cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Bùi Bằng Đoàn, đại tướng Võ Nguyên Giáp, giáo sư Trần Đại Nghĩa, và rất nhiều trí thức lớn khác có sự gợi mở rất lớn trong phép ứng xử đối với trí thức Việt Nam hiện nay.

Từ chỗ trọng trí thức, thấy rõ ưu điểm và khuyết điểm của trí thức, Hồ Chí Minh chủ trương, cần phải làm cho trí thức không ngừng tiến bộ, phát triển: “Đảng và Chính phủ ta rất quý trọng những người trí thức của nhân dân, vì nhân dân. Để xây dựng nước nhà, chúng ta cần càng ngày càng nhiều trí thức tốt. Đảng và Chính phủ vừa phải giúp cho thế hệ trí thức ngày nay càng ngày càng tiến bộ, vừa phải ra sức đào tạo thêm trí thức mới”(40). Như vậy, để trí thức không ngừng phát triển, việc cần làm là cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới.

Bản thân trí thức cũng phải không ngừng tự cải tạo mình, phải kiên quyết đấu tranh với những khuyết điểm của mình, với những nhận thức, tư tưởng không đúng đắn. Hồ Chí Minh viết: “Các đồng chí trong giới trí thức văn nghệ phải hiểu thấu tính nghiêm trọng trong sự tranh luận ấy, và ra sức đấu tranh với kẻ địch, với bầu bạn, với đồng chí, với tự mình. Sao cho mỗi một đồng chí đều trở nên vững chắc, sao cho Đảng ta về mặt tư tưởng và về mặt tổ chức đều thống nhất, đều vững vàng”(41). Người trí thức phải tự mình trở thành trí thức hoàn toàn, có lập trường chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có tinh thần dấn thân, có tính chiến đấu cao, tóm lại là phải có đủ cả đức và tài.

Ngày 6 tháng 8 năm 2008, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (gọi tắt là Nghị quyết 27). Đây là một Nghị quyết quan trọng, trong đó đưa ra định nghĩa trí thức; đánh giá thực trạng đội ngũ trí thức và công tác xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ Đổi mới; xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cho đến nay, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết, đội ngũ trí thức Việt Nam đã có những nước phát triển mạnh mẽ. Tính riêng trong 10 năm, từ 2009 đến 2019, tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở lên đã tăng gấp hơn hai lần (năm 2009 là 4,4%, năm 2019 là 9,3%)(42). Tuy vậy, báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 27 của nhiều địa phương trên cả nước cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam. Bản thân Nghị quyết 27 cũng có những nội dung cần được hoàn chỉnh thêm.

Để góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, có thể đúc rút một số gợi mở như sau:

Một là, cần tiếp tục làm rõ thêm những tiêu chí nhận diện trí thức, chẳng hạn các tiêu chí về đào tạo chính quy và trình độ học vấn cao, về việc sử dụng tri thức chuyên môn với tính cách là tư liệu lao động trực tiếp và tính chuyên nghiệp của lao động trí óc, về các lĩnh vực hoạt động cụ thể của trí thức, v.v..

Hai là, cần làm rõ thêm những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bao gồm cả những đặc điểm của trí thức nói chung, đặc điểm của trí thức với tư cách là một đội ngũ.

Ba là, cần đánh giá đầy đủ, chính xác ưu điểm, hạn chế của trí thức Việt Nam hiện nay, những yêu cầu đối với trí thức Việt Nam, để từ đó, có những quan điểm, giải pháp xây dựng phù hợp.

Bốn là, về mặt quan điểm, cần tiếp tục nhấn mạnh và làm sâu sắc thêm quan điểm coi trí thức là một nguồn lực, một “vốn liếng quý báu” trong xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

Năm là, trong các giải pháp, cần chú trọng những giải pháp phát triển tư liệu lao động của lao động trí óc là tri thức, trí tuệ; đồng thời, từ góc nhìn của Kinh tế học giáo dục, cần có giải pháp ngăn chặn sự bất bình đẳng và phân tầng giáo dục; chú trọng nâng cao trình độ “hiểu biết” nói chung của nhân dân để hô ứng với đội ngũ trí thức; trong xây dựng đội ngũ trí thức nói chung, cần có những giải pháp đặc biệt cho bộ phận trí thức tinh hoa, lấy đó làm đầu tàu trong phát triển đội ngũ trí thức, và cuối cùng, cần chú ý quan điểm của Hồ Chí Minh về “trí thức hoàn toàn” để xây dựng người trí thức Việt Nam toàn diện./.

                                                                                                                                              Nguồn:tuyengiao.vn

Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image




Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
Đăng nhập