Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng
không chỉ “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá” của Đảng và dân tộc
ta mà còn cung cấp những cơ sở khoa học và kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc trong
đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Người không
chỉ bắt đúng bệnh, đưa ra đúng phác đồ điều trị, mà còn kê các phương thuốc đặc
trị chứng bệnh tham nhũng của cán bộ, đảng viên.
Chủ nghĩa cá nhân - “bệnh mẹ” đẻ ra tham nhũng
Bệnh tham nhũng trong cán
bộ, đảng viên được Hồ Chí
Minh diễn đạt trong một thuật ngữ chung nhất là tham ô. Người chỉ rõ bản chất của tham ô là hành vi “lấy
của công làm của tư. Là gian lận, tham lam”, “tham ô là trộm cướp”. “Của
công” chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ mục đích chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất
nước. Bất cứ hành vi nào lấy “của công” làm “của tư” cũng đều là hành vi tham
ô... Trong “Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh,
huyện và làng, Người đã chỉ ra 6 “lầm lỗi rất nặng nề” của cán bộ cần phải ra
sức sửa chữa đó là: Trái
phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, kiêu ngạo. Trong đó,
Người đặc biệt cảnh báo và lên án hành vi “lấy của công dùng vào việc tư, quên
cả thanh liêm, đạo đức...”(1).
Thực tiễn cho thấy, Cách
mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam có vinh dự lớn lao trở
thành Đảng cầm quyền. Thắng lợi của của cuộc cách mạng đó là biểu tượng của trí
tuệ, bản lĩnh, sức sáng tạo phi thường và “tư cách của một Đảng cách mệnh chân
chính”. Tuy nhiên, nước nhà giành được độc lập chưa lâu, chính quyền cách mạng
non trẻ lại phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn của giặc đói,
giặc dốt và giặc ngoại xâm; tình cảnh đất nước hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi
tóc”. Bên cạnh tập trung giải quyết những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền dân
chủ, nhân dân, Đảng ta lại phải đối phó với giặc nội xâm còn nguy hại hơn đó là
chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ
lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể,
“miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”(2). Người khẳng định, chủ nghĩa cá
nhân là bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con nguy hiểm; một thứ vi trùng rất độc,
do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm khác. Trong số những căn bệnh do
chủ nghĩa cá nhân gây ra, tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm nhất, là “hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện
nhất”(3). Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trộm cắp tiền bạc của Nhân dân, tổn
hại kinh tế của Chính phủ, cũng là mật thám, phản quốc, nếu không phải là tệ
hơn nữa”(4). Người cũng nhắc lại lời cảnh báo của V. I. Lênin: “Không xử bắn lũ
ăn của đút lót… đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những
người cách mạng… Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ
(ăn hối lộ, tặng hối lộ, và những cách hối lộ khác)”(5). Không phải ngẫu
nhiên mà người đứng đầu Đảng và Chính phủ lại dám thẳng thắn phê phán gay gắt
như thế đối với những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh
hiểu rất rõ rằng, đây là những lỗi lầm đặc biệt nghiêm trọng, có hại cho dân,
cho nước cần phải ra sức kiên trì sửa chữa. Đặc biệt, sự phê phán không chỉ
bằng văn thư hành chính nội bộ mà còn công khai lên báo chí công luận, như để
tự phê bình, tự kiểm điểm trước nhân dân. Việc chỉ ra đích danh tham ô là hành vi “trộm cướp”, “là mật thám, phản quốc” đủ để quần chúng thấy rõ quan điểm, thái độ của
Đảng ta không chấp nhận sự tồn tại của những hành vi ấy trong đời sống chính
trị của Đảng và toàn dân. Đồng thời. là sự khởi đầu cho việc hình
thành một lối sống văn hóa trong Đảng, một tập quán chính trị tiến bộ và là
tiêu chí quan trọng của một đảng “là đạo đức, là văn minh” - đã là cán bộ, đảng
viên phải trong sạch, phải nói không với tham nhũng.
Hồ Chí Minh không chỉ dũng
cảm nhìn thẳng vào sự thật, chỉ rõ thực trạng tham nhũng bằng thái độ kiên
quyết không “giấu giếm khuyết điểm” mà quan trọng hơn Người đặt niềm tin tuyệt
đối vào thắng lợi tất yếu trong cuộc đấu tranh đó. Đó là niềm tin cách mạng và
khoa học chứ không phải là “ý niệm tuyệt đối” trong giáo lý tôn giáo; thể hiện
ý chí quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sai lầm, chỉ ra con đường và biện pháp
diệt trừ tham nhũng. Bởi vì, đó là danh dự, lương tâm của những người cộng sản,
nếu không làm được như vậy thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân. Tuy nhiên, cũng cần bàn thêm ở đây, để đấu tranh diệt trừ tham nhũng mà
không gây ra hoang mang cho những cán bộ dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm
và thức tỉnh cán bộ đảng viên “cải tả quy chính”, theo Hồ Chí Minh phải hết sức
thận trọng, bình tĩnh, tỉnh táo và mưu lược. Nghĩa là, phải có chiến lược phòng
chống tham nhũng cụ thể, xác định rõ quyết tâm, kiện toàn tổ chức, bố trí lực
lượng, định ra phương pháp, phương tiện đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là
hành động tự phát, nhất thời. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Ắt phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”(6). Trên cơ sở nhận
diện đúng nguyên nhân nảy sinh tham nhũng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra đúng “phác đồ
điều trị” để phòng, chống tham nhũng.
Tự phê bình và phê
bình - “thang thuốc hay nhất”(7), “thang thuốc thánh”(8) để phòng, chống
tham nhũng
Trong tiềm thức của mỗi
người dân Việt Nam cũng như trong quan niệm của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam không đơn thuần là một Đảng chính trị, thực hiện các chức năng tổ chức,
lãnh đạo giai cấp mà Đảng luôn là một cơ thể sống hoàn chỉnh, có đạo đức và trí
tuệ - Đảng là “đạo đức, là văn minh”. Vai
trò lãnh đạo của Đảng là to lớn, tổ chức của Đảng là chặt chẽ, kỷ luật, đường
lối của Đảng là sáng suốt, đúng đắn; đảng viên của Đảng là những người ưu tú
nhất song không phải là Đảng không có những sai lầm, khuyết điểm. Tuy nhiên,
những sai lầm, khuyết điểm của Đảng là có thể khắc phục, sửa chữa được, vì Đảng
có chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, xác định rõ tôn chỉ mục đích là phục vụ
nhân dân, đặc biệt là có phê bình và tự phê bình. Tự phê bình và
phê bình giống như chiếc gương soi, như người bạn đồng hành, soi đường, chỉ lối
cho mỗi cán bộ, đảng viên trong mỗi bước đi để tránh “vết xe đổ” của chính mình
và của người khác. Lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra quy luật ấy. Hồ
Chí Minh nhiều lần khẳng định mục đích tự phê bình và phê bình là để giúp nhau
sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, giữ gìn đoàn kết và thống nhất trong nội bộ. Hồ
Chí Minh khẳng định, tự phê bình và phê bình chính là “thang thuốc hay nhất”,
“thang thuốc thánh” để phòng, chống tham nhũng. Để tự phê bình và phê bình đem
lại kết quả phải “khéo dùng cái vũ khí sắc bén” ấy, để không bị kẻ xấu lợi dụng
vào việc công kích, nói xấu, triệt hạ nhau. Khi gặp khó khăn thì tự phê bình và
phê bình để thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động, dũng cảm vượt qua khó
khăn. Khi thuận lợi thì tự phê bình và phê bình, để nhận rõ thách thức ở phía
trước, không chủ quan “ngủ quên trên vòng nguyệt quế”. Khi mắc khuyết điểm, sai
lầm, kể cả tội lỗi xấu xa, đê tiện nhất thì “Phê bình và tự phê bình như
uống thuốc xổ. Xổ rồi thì phải uống thuốc bổ. Tháo xe đạp ra chùi cho
sạch bụi, lúc lắp vào phải cho dầu mỡ, xe mới chạy được”(9). Tự phê
bình và phê bình là một vấn đề rất nhạy cảm, đụng chạm đến từng cá nhân và tổ
chức. Tâm lý của con người là thích được
khen hơn bị chê. Mọi người dễ cho rằng tự nói ra khuyết điểm, tự nhận khuyết
điểm nghĩa là tự thừa nhận sự non kém của mình. Điều này dễ liên lụy đến uy tín, chức tước, địa vị và thứ bậc nghề nghiệp,
vì “người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình,
thì sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị”(10). Vì vậy, Hồ Chí Minh
cho rằng muốn tự phê bình và phê bình căn bệnh tham ô đòi hỏi phải có hai yếu
tố đặc biệt quan trọng đó là thái độ và phương pháp đúng.
Thứ
nhất, thái độ đúng là yếu tố rất quan trọng giúp ngăn ngừa
tham nhũng ngay khi nó còn trong trứng nước, thể hiện ở tinh thần cầu thị, lắng
nghe, thấu hiểu, cảm thông chia sẻ, dũng cảm, kiên trì đấu tranh trên tình đồng
chí thương yêu, giúp đỡ nhau. Nếu thái độ không đúng dễ dẫn đến bao che, giấu
giếm khuyết điểm, dễ gây hiềm khích, mất đoàn kết, mất niềm tin đối với đồng
chí mình. Nó càng đặc biệt nguy hại khi tự phê bình và phê bình hành vi tham ô
bị lợi dụng làm bình phong cho ai đó vì mưu đồ cá nhân, vì lòng hẹp hòi, đố kỵ,
hòng hạ bệ đồng chí mình gây mất đoàn kết nội bộ, làm hoang mang mất niềm tin
trong nhân dân. Do đó, tự phê bình và phê
bình “phải ráo riết, và phải lấy lòng thân ái,
lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi
đôi với nhau”(11). Hồ Chí Minh cũng lưu ý, thái độ khoan dung, nhân ái cần phù hợp với từng đối
tượng cụ thể, với tính chất mức độ của khuyết điểm, sai lầm, tuyệt đối không
được cào bằng; phải kiên quyết xét rõ công - tội, không thiên tư,
thiên vị. Với những cán bộ, đảng viên biết ăn
năn, hối cải, Đảng cần khoan dung, độ lượng tạo cơ hội cho họ sửa chữa khuyết
điểm, sai lầm. Quan điểm trên không chỉ thể hiện bản chất nhân văn
của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn khơi gợi ý thức tự giác ở mỗi cán bộ, đảng
viên trong tu dưỡng, rèn luyện bản thân.
Thứ hai,
phương pháp đúng - đây là vấn đề mấu chốt nhất cần
phải có. Theo Hồ Chí Minh, phương pháp hiệu quả nhất đó là phải được duy trì
thường xuyên và trên cơ sở đề cao trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng
viên. Trong bài “Tự phê bình”, Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày nào
cũng phải ăn cho khỏi đói, rửa mặt cho khỏi bẩn, thì ngày nào cũng phải tự phê
bình cho khỏi sai lầm”(12). Trong sinh
hoạt, mỗi cán bộ, đảng viên phải chỉ ra cho đồng chí mình những tác hại, nguyên
nhân dẫn đến khuyết điểm sai lầm. Đồng thời, phải thường xuyên quan tâm hướng
dẫn, động viên, kiểm tra, theo dõi quá trình sửa chữa khuyết điểm, sai lầm của
đồng chí, đồng nghiệp. Hồ Chí Minh đặc biệt phê phán các biểu hiện hình thức,
thiếu nhất quán “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “nói không đi đôi với làm”,
“nói một đàng làm một nẻo”, nặng về hô hào khẩu hiệu, bệnh thành tích… sẽ làm
giảm hiệu quả, đôi khi phản tác dụng của việc tự phê bình và phê bình. Để đề
cao trách nhiệm nêu gương theo Người cần phải chú trọng nêu gương trong Đảng
trước, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ cao cấp. Người chỉ rõ: “Muốn tự
phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải
làm gương trước”(13). Bởi vì, “uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực
hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm để
đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e
sợ quần chúng phê bình”(14).
Việc tự phê
bình và phê bình hành vi tham ô phải gắn liền với những điều kiện cụ thể, phù
hợp với đặc điểm, hoàn cảnh của từng cá nhân trên từng cương vị công tác. Ở mỗi
đơn vị, trong từng hoàn cảnh, nội dung, cách thức tiến hành phải phù hợp với
điều kiện khi thực hiện tự phê bình và phê bình. Những cán bộ, đảng viên có
tinh thần cầu thị sẽ thấy việc tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay để
trị bệnh tham ô. Còn đối với những trường hợp suy thoái, nhất là tha hóa, biến
chất thì việc phê bình không còn nghĩa lý gì. Do vậy, chỉ phê bình thôi chưa đủ
mà cần kết hợp với các biện pháp khác, nhất là việc kiểm soát quyền lực.
Kiểm soát quyền lực
- “thanh bảo kiếm nhiệm màu” phòng, chống tham nhũng
Trong điều
kiện đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm vấn đề kiểm soát quyền
lực khi trao cho cán bộ, đảng viên. Bởi vì, “Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể,
cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của
đút, có dịp “dĩ công vi tư”(15). Do đó, nếu tổ chức
việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha” bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao
nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm
trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”(16). Theo Hồ Chí Minh, muốn kiểm soát quyền lực phải có hai điều: “Một
là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường xuyên làm. Hai là, người đi
kiểm soát phải là những người rất có uy tín”(17).
Để kiểm
soát quyền lực thì việc lựa chọn cán bộ phụ trách kiểm tra, giám sát, kiểm soát
là yêu cầu quan trọng bậc nhất. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải chú trọng lựa chọn
những người biết đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, phải có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ” và “ít lòng tham muốn vật chất”, không vì cảnh nghèo mà thay lòng đổi dạ
sinh ra bất liêm. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích
của dân tộc, của Tổ quốc. Theo Người, đây chính là căn cứ quan trọng bậc
nhất trong đánh giá, lựa chọn cán bộ đảm trách công
tác kiểm tra, giám sát. Đồng thời, phải lựa
chọn những người có đủ uy tín, kinh nghiệm, năng lực trình độ để lãnh đạo, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Không phải
gặp việc gì, gặp ai cũng có thể phái đi kiểm tra, giám sát, kiểm soát được. Do
đó, Hồ Chí Minh cho rằng: cán bộ phụ trách công tác kiểm tra trước hết phải là
người lãnh đạo và “người lãnh đạo cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm
và giàu năng lực để giúp mình đi kiểm tra”(18). Trong công tác kiểm tra, người
lãnh đạo cần chú trọng xây dựng một đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
và phải chịu trách nhiệm đối với công tác kiểm tra của mình. Đồng thời, Hồ Chí
Minh phê phán rất nghiêm khắc những người lãnh đạo, cán bộ kiệm tra mắc bệnh
quan liêu, bệnh bàn giấy: “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công
việc vẫn không chạy”(19).
Song song
với việc lựa chọn cán bộ, để đảm bảo công tác kiểm tra, kiểm soát quyền lực
thực sự là “thanh bảo kiếm nhiệm màu” trong phòng, chống tham nhũng đòi
hỏi phải có phương pháp đúng, nghĩa là kiểm tra, kiểm soát phải có hệ thống và
sát thực tiễn. Mục đích của việc kiểm tra, kiểm soát quyền lực nói chung, trong
đấu tranh phòng chống tham nhũng nói riêng là “để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa
chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm”(20), tuyệt nhiên không phải là hành động
“bới bèo ra bọ, quét nhà ra rác” rồi tìm cách hạ uy tín, hạ bệ nhau. Đối tượng
kiểm tra theo Hồ Chí Minh bao gồm: Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc
chấp hành thực tế công tác - mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách
hiện nay là ở đấy, vẫn ở đấy và chỉ có ở đấy. Trong quá trình kiểm tra không
nên chỉ căn cứ vào các báo cáo, mà phải sâu sát thực tiễn đi đến tận nơi. Thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, hiệu quả công việc chính là thước đo đánh giá
kết quả sử dụng quyền lực ủy thác. Thông qua công tác kiểm tra để xem những
nghị quyết đó đã thực hành được đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, nhân
dân có ra sức tham gia hay không. Trên cơ sở đó vừa phát huy ưu điểm, phát hiện
cái mới, cái tốt hơn nhằm điều chỉnh phương thức lãnh đạo sát hợp hơn; đồng
thời, ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện quan liêu, xa dân, không sâu sát
thực tiễn trong tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu.
Ngoài ra,
để kiểm tra, kiểm soát quyền lực không chỉ dựa vào lực lượng chuyên trách mà
quan trọng nhất cần phải dựa vào tai mắt của nhân dân. Trên thực tế, hầu hết
các vụ việc tham nhũng đều do nhân dân phát hiện và tố giác. Muốn phát huy vai
trò của nhân dân trong kiểm tra, kiểm soát quyền lực, theo Hồ Chí Minh, Đảng
phải giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; phải công khai mọi hoạt động
của Nhà nước; phải hình thành các thiết chế dân chủ để mọi người dân “biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(21). Đây
chính là cơ sở để người dân tham gia kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của các
cơ quan nhà nước, của mọi cán bộ, đảng viên trong Nhà nước. Trên cơ sở đó, các
hành vi tham nhũng dù tinh vi đến đâu cũng không thể che mắt nhân dân. Cán
bộ phụ trách công tác kiểm tra phải thường xuyên gần gũi dân, lắng nghe dân,
bảo vệ dân và học hỏi dân để phát hiện tiêu cực, kịp thời ngăn chặn và xử lý
nghiêm các hành vi tham nhũng.
Trên cơ sở
kết quả kiểm tra cần phải công khai trừng trị cán bộ, đảng viên đã tha hóa,
biến chất, suy thoái để răn đe, cảnh tỉnh và nêu gương “tự chỉnh đốn”
trước quần chúng. Theo Hồ Chí Minh, Đảng không dũng cảm cắt bỏ ung nhọt, sâu
bệnh sẽ rất khó để phòng ngừa tham nhũng. Việc Chủ tịch Hồ
Chí Minh bác đơn xin ân giảm án tử hình của Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu
Trần Dụ Châu được coi là điển hình của tinh thần “thượng tôn” pháp luật, đức
trị kết hợp với pháp trị - thực sự có sức mạnh răn đe đối với những cán bộ,
đảng viên thoái hóa, biến chất, tha hóa quyền lực vào thời điểm lúc bấy giờ.
Giáo dục đạo đức
công dân – “chất đề kháng hữu hiệu” để phòng, chống tham nhũng
Đạo đức công dân là những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi của
công dân trong quan hệ với Nhà nước, nó được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống, sức mạnh của dư luận xã hội và pháp luật. Hồ Chí Minh
coi giáo dục đạo đức công dân là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để ngăn chặn, đẩy
lùi tham nhũng. Bởi vì, đạo đức công dân
chính là nền tảng tinh thần định hướng, dẫn dắt công dân hướng tới những giá
trị dân chủ mới, đề kháng với những biểu hiện phi dân chủ, ngăn chặn, đẩy lùi
các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước, nhất là tệ quan liêu, tham
nhũng. Nó được thể hiện ở hai khía cạnh: tạo ra môi trường chính
trị - xã hội trong sạch, lành mạnh và tạo ra sức đề kháng từ bên trong để ngăn
chặn, đẩy lùi tham nhũng.
Xét ở khía cạnh thứ
nhất, bản chất của đạo đức công dân chính là việc đề cao trách
nhiệm, nghĩa vụ của công dân với nhà nước. Với tư cách là người chủ quyền
lực, khi đạo đức công dân được nâng cao họ sẽ sáng suốt lựa chọn những đại biểu
ưu tú để “ủy thác quyền lực”, tránh hiện tượng trao nhầm quyền lực dẫn đến các
hành vi tham nhũng và các căn bệnh xấu xa, hư hỏng khác. Đồng thời, nó tạo ra
dư luận xã hội tích cực mà ở đó các hành vi tham nhũng bị phát hiện, theo dõi,
lên án và phê phán kích liệt vì tham nhũng là ăn cắp, là “tội lỗi đê tiện
nhất”. Hồ Chí Minh khẳng định: “...nhân dân
lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng
chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó
cho”(22). Mặt khác, trong xã hội dân chủ, chuẩn mực đạo đức công dân
quan trọng nhất đó là “tuân theo pháp luật nhà nước”, thể hiện ở tinh thần
“thượng tôn pháp luật”, không ai được phép đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất
kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(23). Đây chính là cơ sở
pháp lý quan trọng thúc đẩy mọi công dân tham gia đấu tranh phòng chống tham
nhũng. Theo đó, kể từ nay, bất cứ ai, dù giữ cương vị gì trong nhà nước, nếu
phạm phải tham nhũng thì đều bị nghiêm trị.
Xét ở khía cạnh thứ
hai, cán bộ, đảng viên của Đảng
là người thực hiện chức năng kép, vừa là người thừa hành quyền lực ủy thác của
nhân dân vừa là những “công dân đứng đắn”, “công dân tốt”, “công dân kiểu
mẫu”. Theo Hồ Chí Minh: sự tha hóa đạo đức của đối tượng này thể hiện rõ
rằng họ “Chẳng những không làm tròn nhiệm vụ của người cán bộ, mà còn không làm
tròn bổn phận của người công dân; đã đặt lợi ích riêng của cá nhân lên trên lợi
ích chung của Nhà nước”(24). Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên toàn
Đảng: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà
ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(25). Do đó, việc tu dưỡng đạo đức công dân, biểu hiện cao
nhất ở tuân thủ tính nghiêm minh của pháp luật chính là chất đề kháng hữu hiệu
giúp cán bộ, đảng viên “không muốn tham nhũng” và “không dám tham nhũng”. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đề cao trách nhiệm nêu
gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, “đảng viên đi trước, làng nước
theo sau”. Mọi hành vi bất liêm sẽ dễ dàng bị phát hiện, bị tố giác nếu
cán bộ, đảng viên không đề cao nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của mình. Trách nhiệm nêu gương của những “công dân kiểu mẫu”
không chỉ thể hiện trong công tác mà còn biểu hiện sinh động trong sinh hoạt
hàng ngày ở gia đình và nơi cư trú. Dự luận cũng đồng tình theo
quan điểm: “Bộ mặt đạo đức thực sự của con người biểu hiện trong cách sống ở
gia đình. Người ích kỷ nhỏ nhen và độc đoán trong gia đình không thể là một
công dân chân chính”(26). Càng gần dân, cọ sát với dân càng học hỏi được ở nhân
dân nhiều điều hay, nhiều kiến thức của cuộc sống bổ ích và chắc chắn sẽ càng
vì dân, tránh xa các hành vi tham nhũng.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước đạt được những thành tựu to lớn, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay”(27). Tuy nhiên, sự nghiệp
đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức không nhỏ. Tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” từ
chỗ chỉ là “một bộ phận” đã lây lan sang “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng
viên; làm sói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng….
Thực tế, trong nhiệm kỳ Đại
hội XII của Đảng, “đã thi hành kỷ luật 2209 cán bộ, đảng viên có liên quan đến
tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý cả đương chức
và nghỉ hưu”(28). Quyết tâm của Đảng ta trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
được thể hiện rõ trong lời phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng tại Hội nghị Chính phủ với địa phương: “Chúng ta rất nhân văn, nhân đạo,
nhân ái, nhân tình; không thích thú gì khi phải kỷ luật đồng chí, đồng đội của
mình, trái lại rất khổ tâm, đau xót. Nhưng vì sự tiến bộ chung, vì để mong
nhiều người không mắc sai phạm, chúng ta phải kỷ luật; kỷ luật một vài người để
cứu muôn người”(29).
Quan điểm “kiên quyết, kiên
trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng” được thể hiện rõ trong phát
biểu của người đứng đầu Đảng: “Tinh thần là phải tiếp tục làm, làm quyết liệt,
làm tập trung, dứt điểm những việc đang dở dang, những khâu còn yếu, những địa
bàn trọng điểm. Toàn Đảng, toàn Dân quyết tâm. Không có chuyện dừng lại hay
ngập ngừng. Mà cũng không thể ngừng lại được. Đây là yêu cầu của cách mạng, yêu
cầu, tình cảm của Nhân dân, mong muốn của Đảng ta. Phải khẳng định quyết tâm
ấy. Còn trong chúng ta có ai dao động, ngập ngừng thì tự giác báo cáo, xin tự
thôi đi!”(30).
Lịch sử nhân loại đã có
hàng nghìn năm bàn đến nạn tham nhũng dưới các chế độ nhà nước, với nhiều tên
gọi khác nhau. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cha ông ta còn lưu truyền một lễ
hội quan trọng thường được tổ chức dịp đầu năm - Lễ hội “Thề không tham nhũng”.
Điều đó nói lên rằng, cũng giống như phần còn lại của thế giới, nhân dân Việt
Nam không bao giờ chấp nhận hành vi tham nhũng trong đời sống xã hội. Đồng
thời, cũng cho thấy tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài, gian khổ của cuộc
đấu tranh ấy. Bằng những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo, độc đáo, tư tưởng Hồ Chí
Minh về phòng, chống tham nhũng đã, đang và mãi mãi là kim chỉ nam định hướng
cho toàn Đảng và toàn dân tộc trong cuộc “chiến đấu khổng lồ” nhằm ngăn chặn,
đẩy lùi tham nhũng, để Đảng ta thực sự xứng đáng với sứ mệnh thiêng liêng, cao
cả và vĩ đại - là “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”./.
Nguồn:tuyengiao.vn