Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng sự nghiệp đổi mới, ngọn cờ dẫn dắt đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc
Trong sự nghiệp đổi mới, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng
Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục vận dụng, phát triển tư tưởng của
Người, thông qua việc khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh soi sáng sự nghiệp đổi mới đất nước
Trước
hết, con
đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là con đường đổi mới, tìm đến chân lý
của thời đại, đưa chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trước
cảnh giang sơn chìm đắm trong nỗi nhục mất nước, người thanh niên Nguyễn Tất
Thành vừa bước qua tuổi 21 đã ra đi tìm đường cứu nước với hành trang duy nhất
là lòng yêu nước, thương dân vô hạn và hoài bão cứu nước, cứu dân. Người quyết
định tìm một hướng đi mới, chưa ai làm, đó là sang phương Tây, vào tận “sào
huyệt của kẻ thù” để tìm đường cứu nước. Sự sáng tạo đầu tiên trong hành trình
đó đã chứng tỏ bản lĩnh, trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén, đổi mới trong
con người Hồ Chí Minh và chuyến đi kéo dài hơn 30 năm của Nguyễn Tất Thành trở
thành một trong những cuộc hành trình kỳ lạ, vĩ đại trong lịch sử dân tộc(1).
Người
đã trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, hòa mình vào đời sống của các tầng lớp
nhân dân lao động để từ đó, mở mang nhận thức, tìm ra chân lý cách mạng. Người
tìm hiểu, so sánh cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ với Cách mạng Tháng Mười
Nga, học hỏi nền văn hóa phương Đông và nền văn hóa phương Tây, tiếp thu những
giá trị của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo, đọc những tác phẩm của các nhà khai
sáng Pháp... Đến khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin, Người đã tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản, gắn
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội theo ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Sự lựa chọn của Người cũng chính là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam. Từ đây,
dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân Việt Nam đã làm nên Cách mạng Tháng Tám vĩ
đại, lật đổ ách thống trị của ngoại bang giành độc lập dân tộc, lật nhào chế độ
phong kiến tồn tại cả nghìn năm để xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
mở ra bước phát triển vĩ đại của dân tộc. Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đúc kết: “Công
lao vĩ đại đầu tiên của Hồ Chủ tịch là đã gắn phong trào cách mạng Việt-nam với
phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt-nam đi theo con đường mà chính
Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(2).
Người đã để lại tấm gương sáng ngời về đổi mới ngay từ khi lựa chọn con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc để hình thành nên quy luật phát triển và thắng lợi
của cách mạng Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm
khu công nghiệp Liên hợp gang thép Thái Nguyên nhân dịp lò cao số 1 ra mẻ gang
đầu tiên, ngày 1-1-1964_Nguồn: hochiminh.vn
Thứ
hai, Chủ
tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực của tư duy đổi mới, ham học hỏi, tiếp thu
cái mới, cái tiến bộ; soi sáng, dẫn đường sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển.
Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái
cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(3). Nói về công cuộc
kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi,
Người nhấn mạnh đó là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng,
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong
tư tưởng Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết
sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(4).
Nói
đến phát triển thì phải luôn luôn thể hiện và gắn liền với sự sáng tạo, đổi
mới; bởi lẽ, đó vừa là đường dẫn, vừa là linh hồn của phát triển. Người luôn
suy nghĩ, tìm tòi, đổi mới trong công việc, không cứng nhắc, bảo thủ, đóng
khung mà rất linh hoạt, mềm dẻo khi xử lý, giải quyết từng vấn đề, sự việc cụ
thể. Phong cách làm việc của Người không chấp nhận tư duy lối mòn, kinh nghiệm
chủ quan, mà hướng tới sự mới mẻ, hiệu quả để ngày càng đạt kết quả tốt hơn.
Sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam được soi sáng bởi chính tư duy, trí tuệ Việt Nam trên
cơ sở kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh
hoa văn hóa nhân loại, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, với nền tảng, gốc rễ là tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Thứ
ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh là trung tâm quy tụ ý chí, khát vọng, niềm tin và sức
mạnh của sự nghiệp đổi mới của cách mạng Việt Nam.
Trong
cuộc khủng hoảng và đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và
các nước Đông Âu cuối thế kỷ XX, trong khi nhiều lãnh tụ cầm quyền ở các nước
xã hội chủ nghĩa bị công kích thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được loài người tiến
bộ tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất. Giữa
lúc nhiều nước xã hội chủ nghĩa có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn
Việt Nam, tiến hành cải tổ không thành công thì công cuộc đổi mới ở Việt Nam
lại đạt được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Câu hỏi ở đây là: Vì sao có
thực tế vĩ đại đó? Đó là bởi, tư tưởng, nhân cách văn hóa, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh đã soi sáng, dẫn đường cho cách mạng Việt Nam; dưới ánh sáng ấy,
Đảng Cộng sản Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, trở ngại, dũng
cảm nhìn vào sự thật, để sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của chính mình, từ
đó đề ra được đường lối đổi mới kịp thời, đúng đắn, sáng suốt nhất.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng là tấm gương sáng ngời trong phòng, chống tệ quan liêu,
tham nhũng, nêu gương đạo đức liêm khiết, mẫu mực, tận trung với nước, tận hiếu
với dân. Điểm đặc sắc trong tư tưởng của Người là hàm chứa trí tuệ cao gắn liền
với tình cảm cách mạng sâu sắc, được diễn đạt một cách giản dị, giữa “nói đi
đôi với làm”, rất gần với lối cảm, lối nghĩ của quần chúng. Chính vì vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh đã đi vào lòng người một cách tự nhiên, thẩm thấu, đọng lại
sâu sắc, lan tỏa trong trái tim, khối óc của mỗi người dân Việt Nam, trở thành
nguồn động lực tinh thần vô giá để xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” như tâm nguyện của Người.
Thấm
đẫm giá trị và tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lê-nin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, và tư tưởng của Người đã trở thành
một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Tại Đại hội VI (tháng
12-1986) - Đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới - Đảng đã nhấn mạnh: “Muốn đổi
mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh”(5). Tại Đại hội VII (tháng 6-1991), thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
lần đầu tiên đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào văn kiện và khẳng định: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động”(6), và tổng kết thành bài học: “Điều kiện cốt yếu để
công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là
trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(7). Đại hội IX của
Đảng khẳng định, những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII nêu lên,
vẫn còn nguyên giá trị, mà bài học hàng đầu vẫn là: “Trong quá trình đổi mới
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(8).
Tiếp
đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI (năm 2011) của
Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(9). Tại Đại
hội XIII (năm 2021), Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng... để xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(10).
Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu dự Đại hội XIII của
Đảng, tháng 1-2021_Ảnh: Tư liệu
Bước
phát triển trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn của Đảng đã cho thấy,
cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là một bộ phận cơ
bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đồng thời, sự khẳng định này cũng bảo đảm sự thống nhất nhận thức
trong toàn Đảng, thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những luận điệu
sai trái, thù địch, đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy, nếu xa rời tư tưởng Hồ
Chí Minh thì cách mạng Việt Nam sẽ gặp khó khăn, thử thách. Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã trở thành yếu tố tất yếu, không thể thiếu trong toàn bộ quá trình hình
thành và phát triển của cách mạng Việt Nam.
Như
vậy, trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta
luôn nhận thức đúng đắn, nhất quán, quán triệt, vận dụng sáng tạo và bảo vệ bản
chất khoa học, cách mạng, nhân văn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đây chính là nhân tố quyết định, làm nên mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh - ngọn cờ dẫn dắt đất nước đến phồn vinh, hạnh phúc
Tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, mà còn có giá trị bền vững, lâu dài đối với sự nghiệp đổi mới, thực
hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Khác
với sự ra đời của nhiều tư tưởng, lý luận trên thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành, phát triển trong quá trình đi tìm đường cứu nước, giải phóng
dân tộc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, từ khát vọng làm cho dân tộc độc lập,
đất nước hùng cường, phồn vinh, nhân dân được ấm no, tự do, hạnh phúc. Đó là sự
đúc rút, tổng kết từ cuộc đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, nhưng vô
cùng sôi nổi, phong phú, cao đẹp và trong sáng của Người.
Một
là, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nuôi dưỡng và truyền cảm hứng về khát vọng phát
triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Khi
cách mạng vừa thành công, đất nước trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”,
Người đã nêu khát vọng đưa dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang”, “sánh
vai với các cường quốc năm châu”. Đó chính là nỗi niềm chung, mong muốn chung
của cả dân tộc, là cái đích mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn đấu đạt
tới. Để thực hiện mong muốn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đề ra các biện pháp
giải quyết các nhiệm vụ cấp bách, như nạn đói, nạn mù chữ, xây dựng Hiến pháp
dân chủ, bảo đảm tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính trong đội ngũ cán bộ, đảng viên... Người nêu rõ mong muốn, khát
vọng mãnh liệt “...là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Người yêu cầu phải thực hiện ngay “làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm
cho dân có chỗ ở; làm cho dân có học hành”.
Hai
là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng, vạch ra con đường, biện pháp để xây
dựng, phát triển đất nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, phồn vinh,
hạnh phúc.
Trong
bản Di chúc thiêng liêng, Người trăn trở, suy nghĩ về kế hoạch
xây dựng lại thành phố và làng mạc bị chiến tranh tàn phá; khôi phục và mở rộng
các ngành kinh tế; sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân
dân; trồng cây thành rừng tốt cho phong cảnh, lợi cho nông nghiệp... Người mong
muốn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Ba
là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng, là tinh hoa của tinh thần khoan dung,
nhân ái, yêu chuộng hòa bình, văn minh Việt Nam và tiến bộ của thế giới.
Khoan
dung, nhân ái, yêu chuộng hòa bình Hồ Chí Minh cũng chính là biểu hiện của tinh
thần tiến bộ, văn minh Việt Nam và thế giới trong thời đại mới. Đó là lòng yêu
thương sâu sắc đối với con người, ở cái nhìn rộng lượng đối với những sự khác
biệt với mình, ở sự tôn trọng niềm tin của người khác; xa lạ với mọi thái độ
cuồng tín, giáo điều. Đối với các tôn giáo, Người tôn trọng đức tin của người
có đạo, tìm điểm tương đồng về giá trị giữa lý tưởng của các bậc sáng lập tôn
giáo với mục tiêu giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, của
Đảng ta. Người được cả dân tộc và nhân loại tôn vinh là chiến sĩ vì hòa bình,
đấu tranh chống lại những bất công, tàn bạo, nâng đỡ, giúp đỡ con người được
sống một cuộc sống đúng nghĩa của con người.
Hiện
thực hóa khát vọng đổi mới, sáng tạo và xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh
phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhìn
lại hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về
đường lối đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
sáng rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên.
Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đây
là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước
trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất
nước. Ý chí và khát vọng về một dân tộc Việt Nam hùng cường của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đặt nền móng, từng bước đưa dân tộc Việt Nam tiến cùng nhịp bước với
trào lưu tiến bộ trên thế giới và ý nguyện hòa bình, phát triển của nhân loại.
Đại
hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, là dấu mốc
quan trọng trong quá trình phát triển của Đảng ta, dân tộc ta, đất nước ta. Tại
Đại hội XIII, lần đầu tiên trong chủ đề của Đại hội và trong các văn kiện chính
trị đề cập đến “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Đây là một điểm rất mới và là một dấu ấn rất quan trọng. Khát vọng thịnh vượng
đã được khơi dậy, truyền cảm hứng và như một lời hiệu triệu với non sông, đất
nước, với gần một trăm triệu người dân Việt Nam mà ở đó, mục tiêu rõ nhất là
làm cho người dân được hạnh phúc dưới ánh sáng tư tưởng, đạo đức, phong cách và
khát vọng Hồ Chí Minh.
Hiện
nay, bên cạnh xu thế tích cực là chủ đạo, tình hình thế giới vẫn còn nhiều diễn
biến phức tạp, khó lường; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền
nước lớn, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân túy trong quan hệ quốc tế có xu
hướng gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ, đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức mới. Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy
thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch COVID-19. Các
quốc gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt
sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh
tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công
nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt, quyết liệt, tác
động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu.
Ở
trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, đất nước ta đang phải đối diện với
những khó khăn, thử thách và trở ngại không hề nhỏ. Nền kinh tế phát triển chưa
bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, lại phải đối diện với nhiều khó khăn,
thách thức mới do tác động của đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn
cầu gây ra. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt còn gay
gắt hơn. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và
đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng
thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới.
Để
hiện thực hóa khát vọng đổi mới sáng tạo và xây dựng nước Việt Nam phát triển
phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần vận dụng sáng tạo tư tưởng
của Người trong bối cảnh mới của thời đại, phù hợp với tình hình thực tiễn của
đất nước trên những nội dung sau:
Thứ
nhất, kiên
định, trung thành với lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Đổi mới là một quá trình
cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đổi mới không phải là từ bỏ, thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho
mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả, để chủ nghĩa xã hội phát huy được bản
chất ưu việt, không giáo điều, trì trệ và xơ cứng trong tư duy và tư tưởng, làm
sống động những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thực tiễn đổi mới của Việt Nam.
Thứ
hai, khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, sức mạnh tổng hợp của
nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ
khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ
tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm nhà máy sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy của
Tập đoàn Thaco tại Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam_Ảnh: TTXVN
Thứ
ba, gắn
phát triển kinh tế với phát triển xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo bảo
vệ môi trường vì sự phát triển bền vững của đất nước và phục vụ cuộc sống, vì
cuộc sống bình yên của người dân. Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ mục tiêu
của đổi mới, Đảng ta đặt “dân giàu, nước mạnh” lên hàng đầu. Các chính sách
kinh tế phải thống nhất với các chính sách xã hội, lấy sự phát triển toàn diện
của con người làm mục tiêu, là thước đo của sự phát triển.
Thứ
tư, tiếp
tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú
trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Thứ
năm, kiên
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế,
an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động
ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử
lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến;
đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch./.
Nguồn:tapchicongsan.org.vn