Quan niệm của Hồ Chí Minh về suy thoái đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn khá nhiều về suy thoái
đạo đức, lối sống. Người thẳng thắn đấu tranh với mọi biểu hiện cá nhân chủ
nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không
quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn
người khác hơn mình. Người gọi đó là các căn bệnh: “Óc hẹp hòi - ở
trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình. Ở
ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng
mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng
ở ngoài Đảng. Vì thế mà người ta uất ức và mình thành ra cô độc:”1;
và “Bệnh tham lam - Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích
của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”.
Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng
của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay
của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất
thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”2. "Còn có
những đồng chí chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của công làm của
tư, đạo đức cách mệnh thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc"3.
Ngay từ đầu năm 1948, khi nhà nước cách mạng còn
hết sức non trẻ, gặp muôn vàn khó khăn, Người đã chỉ ra cần phải đấu tranh với
những vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết
xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức,
tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành. Hồ
Chí Minh yêu cầu: “Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn
đúng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình
từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em” ngăn
cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ
đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”4.
Người kiên quyết chống “Bệnh hẹp hòi”, vì “Nhiều
thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh
hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v., đều do
bệnh hẹp hòi mà ra!”5. Người giải thích về “Địa phương chủ
nghĩa”, đó là: “chỉ chăm chú lợi ích của địa phương mình mà không nhìn đến lợi
ích của toàn bộ. Làm việc ở bộ phận nào chỉ biết bênh vực vun đắp cho bộ phận ấy.
Do khuyết điểm đó mà sinh ra những việc, xem qua thì như không quan hệ gì mấy,
kỳ thực rất có hại đến kế hoạch chung”6.
Sau Cách mạng tháng Tám, mặc dù những biểu hiện
“chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu” chưa phổ biến, nhưng
nhiều biểu hiện “thành tích”, háo danh, phô trương, thổi phồng thành tích,
“đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi, đã bị Người chỉ ra và phê
phán, như các bệnh: “Ham chuộng hình thức: Việc gì không xét đến cái kết quả
thiết thực, cần kíp, chỉ chăm về hình thức bên ngoài, chỉ muốn phô trương cho
oai”7. “Bệnh “hữu danh, vô thực”- Làm việc không thiết thực, không
từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi.
Làm được ít suýt ra nhiều để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ thì lại
rỗng tuếch”8. “Bệnh kiêu ngạo - Tự cao, tự đại,
ham địa vị hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến
người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai
cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta
phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”9.
Người cũng đấu tranh với các biểu hiện che giấu
khuyết điểm: “Báo cáo thì chậm chễ, làm lấy lệ. Báo cáo dối, giấu cái dở cái
xấu, chỉ nêu cái tốt cái hay. Báo cáo bề bộn - chỉ góp báo cáo các ngành, các
cấp dưới, rồi cứ nguyên văn chép lại gửi lên,v.v”10.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm chỉ ra các bệnh có
các biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm
tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình:
- “Óc quân phiệt quan liêu. Khi
phụ trách ở một vùng cao thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh
họe. Đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới cậy quyền lấn áp. Đối
với quần chúng ra vẻ quan cách làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc “ông
tướng, bà tướng” ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp
dưới, đoàn thể xa nhân dân”11.
- “Làm việc lối bàn giấy. Thích làm
việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống
địa phương kiểm tra công tác và để chỉ vạch những kế hoạch thi hành chỉ thị,
nghị quyết của đoàn thể cho chu đáo… Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó
làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên
dưới, cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi
đến chốn”12.
- “Bệnh mệnh lệnh tỏ ra ở chỗ
hay dựa vào chính quyền mà bắt dân làm, ít tuyên truyền giải thích cho dân tự
giác, tự động”13.
Người yêu cầu chống các biểu hiện thờ ơ, vô cảm,
thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân
dân: “Phải chống sự mong muốn làm cho được lòng cấp trên còn ở dưới nhân dân
thế nào cũng mặc, không thể vì lợi ích của Đảng mà chống nhân dân quan liêu, hạ
mệnh lệnh”14.
Những biểu hiện gây lãng phí, thất thoát tài
chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên… cũng được Người chỉ ra
từ rất sớm trong một số cán bộ, đảng viên có những biểu hiện, như: “Họ tưởng
rằng cách mạng là cốt để làm cho họ có địa vị, được hưởng thụ. Do đó mà họ mắc
những sai lầm: kiêu ngạo, chưng diện, hưởng lạc, lãng phí của công tự tư tự
lợi, không tiết kiệm đồng tiền bát gạo là mồ hôi nước mắt của nhân dân. Họ quên
mất tác phong gian khổ phấn đấu, lạt lẽo với công việc cách mạng, xa rời Đảng,
xa rời quần chúng. Dần dần, họ mất cả tư cách và đạo đức người cách mạng, sa
vào tham ô, hủ bại và biến thành người có tội với Đảng, với Chính phủ, với nhân
dân”15.
Người cũng kiên quyết đấu tranh chống tham ô,
lãng phí, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với các đối tượng khác để trục
lợi. Người chỉ rõ: “Bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một số ít cán bộ,
đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém. Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân,
việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì
mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian
khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi,
thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh
quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học
tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức,
tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính
sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân
dân”.16
Ngay từ đầu năm 1947, Hồ Chí Minh đã nêu và kiên
quyết đấu tranh với các biểu hiện thao túng trong công tác cán bộ, mà Người gọi
là: “Óc bè phái: Ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có
cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù có tài họ cũng tìm cách dìm họ xuống,
họ nói phải mấy cũng không nghe”17 và “Kéo bè kéo cánh lại
là một bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình
thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho
nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu,
việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó
xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng
bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất
sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”18.
“Do ít hiểu biết về tình hình trong nước và
ngoài nước, ít nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho nên gặp thuận
lợi thì dễ lạc quan tếu, gặp khó khăn thì dễ dao động, bi quan, lập trường cách
mạng không vững vàng, thiếu tinh thần độc lập suy nghĩ và chủ động sáng tạo. Do
đó mà gặp nhiều khó khăn trong công việc, tác dụng lãnh đạo bị hạn chế”19.
Nguyên nhân của những biểu hiện suy thoái có
nhiều, nhưng chủ yếu là do chủ nghĩa cá nhân sinh ra. Theo Hồ Chí Minh: “Chủ
nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ
quan, tham ô, lãng phí. Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những
người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho
cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”20.
Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương
(1)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5,
tr 296
(2), (3). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 295, 94
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 454
(5), (6). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 276,
87-88.
(7), (8). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 94,297.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 295
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr 417
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 88
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr 89
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr 33
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr 370
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr 508-509
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr 546-547
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr 94
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 297
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr 30-31
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr 611