Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự do và tất yếu - Giá trị vận dụng vào quá trình nhận thức và bảo đảm quyền tự do của nhân dân
Mặc
dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không tập trung bàn riêng về tự do và tất yếu;
song, trong những bài viết, bài nói của Người, chúng ta nhận thấy khá rõ
quan điểm khẳng định về mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu,
giữa tự do và bổn phận của mỗi công dân trên con đường phấn đấu để đi
tới thắng lợi cuối cùng là xây dựng đất nước ta ngày càng “đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn”, nhằm tạo dựng “nền tự do và hạnh phúc cho con cháu
muôn đời sau”.
1- Tự do và Tất yếu là
hai phạm trù quan trọng không chỉ trong triết học, mà còn có vai trò, ý
nghĩa quan trọng cả trong các lĩnh vực của đời sống con người và xã
hội. Hai phạm trù này thể hiện rõ mối quan hệ giữa các hoạt động có mục
đích của con người với các quy luật khách quan, tồn tại độc lập với ý
thức của con người.
Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác, tự do là khả năng, là năng lực của con
người quyết định hành động của mình trên cơ sở nhận thức đúng đắn tính
tất yếu khách quan. Tự do của con người không phải là hành động tùy
tiện, bất chấp quy luật, muốn làm gì cũng được. Nói cách khác, tự do của
con người là sản phẩm của lịch sử, là sự thống nhất giữa nhận thức và
vận dụng, hành động của chủ thể theo cái tất yếu. Cụ thể hơn, “Tự do
không phải là ở sự độc lập tưởng tượng đối với các quy luật của tự
nhiên, mà là ở sự nhận thức được những quy luật đó và ở cái khả năng -
có được nhờ sự nhận thức này - buộc những quy luật đó tác động một cách
có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định... Do đó, sự phán đoán của một
người về một vấn đề nhất định, càng tự do bao nhiêu thì nội dung của sự phán đoán đó sẽ được quyết định với một tính tất yếu càng
lớn bấy nhiêu; còn sự không quả quyết, do không hiểu biết mà ra, thì có
vẻ là chọn lựa một cách tùy tiện trong nhiều khả năng quyết định khác
nhau và trái ngược nhau, song chính do đó mà chứng tỏ rằng nó không có
tự do, nó bị chi phối bởi đối tượng mà lẽ ra nó phải chi phối. Vì vậy,
tự do là ở sự chi phối được chính bản thân và tự nhiên bên ngoài, một sự
chi phối dựa trên sự nhận thức được những tất yếu của tự nhiên; do đó,
tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lịch sử”(1).
Trong chủ nghĩa Mác, tự do, về bản chất là cái vốn có của con người, là “quyền của con người”(2); “sự thiếu tự do là mối nguy hiểm chết người thật sự đối với con người”(3).
Tự do tuyệt nhiên không phải là sản phẩm của tư duy thuần túy, mà đúng
như Ph. Ăng-ghen đã nói, “tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển
lịch sử”(4); cũng có nghĩa là, tự do không tránh khỏi việc bị
giới hạn nhất định của lịch sử quy định. Trong xã hội loài người, tự do
không phải là cái có sẵn, không phải là cái tự nhiên. Nó là kết quả của
các hoạt động hết sức đa dạng của con người, trong đó có hoạt động cải
biến giới tự nhiên; đặc biệt, tự do là kết quả của cuộc đấu tranh giai
cấp trong các xã hội có giai cấp nhằm chống ách áp bức, chống tình trạng
người bóc lột người, chống việc dân tộc này áp bức, đè nén, thống trị
các dân tộc khác. Nói tóm lại, tự do đối với con người là sự nhận thức được cái tất yếu và hành động theo cái tất yếu ấy.
Các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa trong thời đại chúng ta được tiến hành dựa trên cơ sở
con người nhận thức và tự giác hành động theo tính tất yếu đanh thép,
đó là sự sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân, “sự sụp đổ của
giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản”, của những người dân
nô lệ ở các nước thuộc địa, “đều là tất yếu như nhau”(5).
2-
Trong tất cả công trình mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta,
không có công trình nào của Người tập trung bàn riêng về hai phạm trù
triết học này. Tuy nhiên, ngay từ rất sớm, khi mới bắt đầu hành trình đi
tìm con đường cứu nước cho đến tận những ngày cuối đời, trong nhiều bài
viết, bài nói của Người, chúng ta có thể nhận ra quan điểm của Người về
mối quan hệ giữa tự do và tất yếu. Mỗi khi Người nói về cuộc đấu tranh
tất yếu của nhân dân các nước thuộc địa để giành độc lập và tự do, để
xây dựng xã hội mới, chúng ta đều thấy nổi lên vấn đề tự do và tất yếu.
Chẳng hạn, về vấn đề tự do, khi trả lời phỏng vấn của một phóng viên Mỹ
vào cuối tháng 8, đầu tháng 9-1919, về mục đích đến nước Pháp của mình,
Nguyễn Ái Quốc khẳng khái đáp: “Để đòi quyền tự do cho dân An Nam”(6).
Suốt
cả cuộc đời mình, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra sức làm mọi việc
cốt để giành lại độc lập cho đất nước, đem lại tự do cho nhân dân, đúng
như Người nói: Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Đối với Người, có
giành được độc lập hoàn toàn cho đất nước, thì mới có thể đem lại tự do
thật sự cho cả dân tộc và cho mỗi con người. Nói cách khác, độc lập dân
tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết, là tất yếu để cho con người có
được sự tự do. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân
loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự
tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(7).
Bởi vậy, đối với Người, một nhận định mang tính chân lý hiển nhiên là:
Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,/ Cay đắng chi bằng mất tự do?
Năm
1928, Nguyễn Ái Quốc đã đanh thép tố cáo chủ nghĩa thực dân: “đế quốc
Pháp với quân lính của chúng đã coi tính mạng người Đông Dương như cỏ
rác, muốn thì chúng tước đoạt của cải, thích thì chúng bắn giết”(8).
Sự thống trị hà khắc của thực dân Pháp làm cho nhân dân, “chúng tôi
không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội
họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du
lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì
chúng tôi không có quyền tự do học tập”(9); người Việt Nam
cũng như người dân Đông Dương bị tước quyền tự do lập hội, đi lại, diễn
thuyết và viết báo, đều bị bịt mồm bịt miệng và bị giám sát; bị chế độ
thực dân “làm cho u mê để thống trị”. Từ khi thiết lập chế độ
thuộc địa trên đất nước Việt Nam, “những người đại diện cho nước Cộng
hòa Pháp ở Đông Dương vẫn cứ ngoan cố kìm chân người bản xứ trong vòng
nô lệ, không cho họ hưởng một chút quyền tự do nào”(10).
Bôn
ba suốt nhiều năm tháng, qua nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với
nhiều hạng người, làm nhiều nghề kiếm sống để hoạt động cách mạng, chứng
kiến sự tàn bạo và vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân
các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã đúc kết hết sức sâu sắc như sau:
“Chế độ thực dân ngày nay nghìn lần vô nhân đạo, khủng khiếp và tội lỗi
hơn so với chế độ nô lệ. Nó dẫn tới sự hủy diệt nhân dân các thuộc địa”(11).
Chính sự vô nhân đạo, sự đàn áp dã man của chế độ thực dân hơn cả chế
độ nô lệ thời Trung cổ và sự bất bình đẳng xã hội ấy đã “gây ra cho tất
cả những người bản xứ cái tâm trạng chống chủ nghĩa quân phiệt”(12).
Lịch
sử xã hội loài người cho thấy, khi nào và ở đâu có tình trạng người áp
bức, bóc lột người thì tất yếu sẽ có sự phản kháng, sẽ có đấu tranh, cho
nên nhân dân các dân tộc thuộc địa nhất định sẽ vùng dậy chống lại sự
thống trị của chủ nghĩa thực dân để giành quyền sống, giành quyền tự do
cho dân tộc mình. Nguyễn Ái Quốc viết: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách
mệnh”; tất nhiên “áp bức càng đè nặng lên vai dân chúng bao nhiêu thì
dân chúng chống lại càng nhiều bấy nhiêu”(13); “mọi chế độ
thực dân đế quốc đều tiêu diệt hết các nòi giống bản xứ, và muốn cứu vãn
những nòi giống này, ta phải lật đổ chủ nghĩa đế quốc”(14).
Người chỉ rõ rằng, dù người Đông Dương không được học, bằng sách vở và
bằng diễn thuyết, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách
khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy
nhất của họ. Tuy nhiên, “đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông
Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách
ghê gớm, khi thời cơ đến”; chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã
chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt
giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”(15).
Còn
nhiều lần khác nữa Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh mối quan hệ giữa tự do và
tất yếu, theo đó, các dân tộc thuộc địa muốn “ăn quả thì phải trồng
cây”. Muốn tự do, độc lập thì phải hy sinh tranh đấu; muốn thoát ách nô
lệ, muốn tự lập, tự cường thì nhất định phải làm cách mạng; muốn tự giải
phóng hoàn toàn thì còn phải đấu tranh. Bởi vậy, trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp trước
khi bí mật rời nước Pháp, Người viết: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ
ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết
họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(16).
Đặc
biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi người dân ở tất cả nước thuộc
địa rằng, chế độ thực dân không bao giờ muốn đất nước họ được độc lập;
không bao giờ cho dân họ được tự do. Tự do không bao giờ tự đến với họ;
bởi vì, chế độ thuộc địa chỉ muốn họ chìm đắm mãi mãi trong cảnh nô lệ,
nên nếu họ muốn tự giải phóng hoàn toàn thì còn phải đấu tranh, mỗi một
người dân phải hiểu rằng có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do;
cho nên muốn thoát ách nô lệ, muốn tự lập, tự cường thì nhất định phải
làm cách mạng.
Tuy
nhiên, cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chế
độ thực dân chưa đem lại tự do thật sự cho họ ngay tức thì; vì vậy, muốn
có sự tự do thật sự ấy thì các dân tộc còn cần “tự lập”, “tự cường”;
muốn đạt mục đích ấy thì nhất định phải “đánh quỵ đế quốc, đánh quỵ
phong kiến”, “phải có một lực lượng cực kỳ to lớn mạnh mẽ”; phải có sự
đồng lòng, sự đoàn kết nhất trí của toàn thể dân tộc. Tựu trung lại, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay có một tính
tất yếu mang ý nghĩa như một chân lý, đó là “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(17).
Còn xa hơn nữa, “thế giới sẽ chỉ có nền hòa bình cuối cùng khi tất cả
các dân tộc tự mình thỏa thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế
quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó”(18).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh tìm thấy trong chủ nghĩa Mác - Lênin một cái “cẩm nang
thần kỳ” - “con đường cách mạng vô sản” - ở đó, có một sự thống nhất
biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người. Bởi vậy, Người chỉ rõ phải làm thế nào để
cho công nhân da đen và da vàng cùng hiểu rằng: Kẻ thù duy nhất của họ
nằm ngay trong bản thân cái chế độ này, chế độ đang dẫn đến một chế độ
nô lệ tinh vi hơn, và vô nhân đạo hơn chế độ nô lệ trước đây. Để hiện
thực hóa con đường tự giải phóng ấy, tất yếu phải có một đảng cách mạng
chân chính lãnh đạo, bởi lẽ: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(19). Chỉ khi có được
tất cả điều kiện và thành quả của công cuộc giải phóng đó thì con người
mới thật sự có được tự do; khi đó “tự do độc lập là quyền trời cho của
mỗi dân tộc”(20) mới trở thành sự thật.
Các
dân tộc thuộc địa có đánh đổ được sự thống trị của chủ nghĩa thực dân,
đất nước có giành được độc lập thật sự thì nhân dân mới được hưởng quyền
tự do, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thật sự. Đó cũng là
lý do vì sao ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính
quyền về tay nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố
trước thế giới về việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), và Người khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rằng: Một dân tộc đã gan góc chống ách
nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng
minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó
phải được độc lập... Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập ấy. Người luôn luôn khẳng định về một nước
Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, nhưng cũng nhấn mạnh rằng, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(21). Độc lập cho đất nước, tự do và hạnh phúc cho cả dân tộc và cho mỗi con người có mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau.
3-
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi nước nhà giành được độc lập thì
cả dân tộc nhất định phải ra sức xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn; để
cho mọi người có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc; để cho “mọi người
được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy”(22), nghĩa là mọi người được thật sự tự do; bởi vì, tự do, độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc.
Một
xã hội mà con người có được sự tự do như vậy chỉ có thể là xã hội xã
hội chủ nghĩa. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội không tách rời nhau; độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên
quyết và tất yếu để nhân dân tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đồng thời, sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là
điều kiện để thực hiện một cách vững chắc mục tiêu độc lập dân tộc, và
từ đó mang lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho con người.
Từ
lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết bài học lịch sử hết sức quý giá: “Lúc nào
dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại
lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”(23).
Nói cách khác, đoàn kết toàn dân tộc là điều kiện không thể thiếu, là
đòi hỏi tất yếu để giữ gìn nền độc lập của quốc gia và quyền tự do vững
bền cho dân tộc.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh rằng, cũng như trong cuộc kháng
chiến chống thực dân giành độc lập dân tộc, trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội chúng ta càng cần đến tinh thần đoàn kết toàn dân tộc -
một truyền thống quý báu đã được hun đúc trong lịch sử hàng nghìn năm
qua. Chúng ta đang có thuận lợi rất lớn là: “Lịch sử nước nhà chưa bao
giờ trông thấy chúng ta đoàn kết chặt chẽ như ngày nay”(24).
Theo Người, nếu không có sự đoàn kết, nhất trí, đồng lòng rất cao của
toàn dân tộc thì công cuộc xây dựng đất nước sẽ vô cùng khó khăn. Để có
được sự đồng lòng, nhất trí và đoàn kết toàn dân tộc thì Đảng, Nhà nước
và xã hội phải thực hành dân chủ để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền
dân chủ, tự do; bởi vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(25).
Đặc
biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định về mối quan hệ giữa
tự do và tất yếu, giữa tự do và bổn phận của công dân. Người viết: “Nước
ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân”(26).
Nói cách khác, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với mọi công dân, quyền
lợi và nghĩa vụ, tự do và bổn phận, tự do và trách nhiệm, tự do và tất
yếu... gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau. Nếu như trước đây, muốn thoát
ách nô lệ, muốn tự lập, tự cường thì nhất định phải làm cách mạng, vì
thế cả dân tộc ta đã nhất tề đứng lên “kiên quyết noi theo lịch sử vẻ
vang của tổ tiên, tranh lại thống nhất và độc lập cho dân tộc và xây
dựng nền tự do và hạnh phúc cho con cháu muôn đời”(27); thì
ngày nay, để thành công trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng
ta nhất định “phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới mong đi tới
thắng lợi cuối cùng”(28).
Để
thành công trong huy động lực lượng toàn dân tích cực tham gia công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời, muốn xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và các cơ quan nhà nước
nhất định “Phải khắc phục hiện tượng thiếu tập thể, thiếu dân chủ, khắc phục tác phong quan liêu mệnh lệnh, phải nghe ngóng ý kiến của cán bộ và nhân dân”(29); phải “đoàn kết từ trên xuống dưới và phải mở rộng dân chủ thật sự với nhân dân”; cán bộ, đảng viên, đoàn viên “phải... làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(30). Tuy nhiên, theo Người, để thực hiện được tất cả việc đó thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân, vì rằng chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt.
Một
con người, một người cán bộ, một đảng viên cộng sản, khi sa vào chủ
nghĩa cá nhân, chỉ biết lo cho sự tự do của bản thân và chỉ lo thu vén
cho quyền lợi cá nhân mình, dẫn đến tham ô, nhận hối lộ bất chấp pháp
luật của Nhà nước, kỷ cương của tổ chức thì tất yếu sẽ bị kỷ cương và
pháp luật trừng trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, không ít cán
bộ đảng viên, do sa vào chủ nghĩa cá nhân, nên đã mắc “khuyết điểm lớn
nhất là thiếu chí khí làm chủ nước nhà, thiếu tinh thần trách nhiệm”(31).
Người cũng cảnh báo: Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm
qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa,
nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, theo Người, để bản thân mình và
mọi người thật sự làm chủ nước nhà thì cán bộ và đảng viên phải bài trừ tệ quan liêu, lãng phí, tham ô; phải quan tâm đến lợi ích,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phải làm sao cho
“tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”; nghĩa là
trong công việc và trong cuộc sống, mọi người “tư tưởng phải được tự
do... Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp
phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi
người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”(32).
Trong một xã hội không có tự do, thiếu dân chủ thì con người không thể
có sáng kiến, phát minh, sáng chế, không thể sáng tạo, cũng không thể có
sự chủ động trong mọi công việc. Hậu quả sẽ là làm cho sản xuất đình
đốn, xã hội trì trệ.
Trong
công cuộc xây dựng đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện
nay, mọi người, mọi công dân, dù ở bất cứ cương vị nào trong xã hội, đều
cần được hưởng quyền tự do, quyền con người, quyền công dân đã được quy
định rõ trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo đó, “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện” (Điều 3). Rất nhiều quyền tự do và nghĩa vụ của
con người, của công dân cũng được quy định tại các điều từ Điều 14 đến
Điều 49, tại chương II của Hiến pháp: “Quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân”. Chẳng hạn, kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về quyền tự do và nghĩa vụ tất yếu, tự do và luật định, Hiến
pháp cũng quy định rõ quyền con người, “quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công
dân” (Điều 15). Cụ thể là, mọi người không bao giờ được lãng quên nghĩa
vụ, bổn phận, trách nhiệm công dân của mình; không bao giờ được đứng
trên và đứng ngoài pháp luật. Mặc dù tự do, về bản chất là cái vốn có
của con người, là “quyền của con người” như các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác đã nói, nhưng trong xã hội văn minh như xã hội xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang từng bước hướng tới, thì tự do không có nghĩa là
coi thường, bất chấp pháp luật; và bất kỳ ai cũng nhất quyết không được
tùy tiện đi ngược lại kỷ cương, phép nước. Một mặt, xã hội càng
văn minh thì biên độ tự do của con người càng được mở rộng và cũng được
pháp luật bảo vệ một cách hiệu quả hơn; ý thức tuân thủ pháp luật của
mỗi công dân cũng cần được nâng cao hơn; mặt khác, trong xã
hội, tự do của con người cũng không có nghĩa là con người được phép hành
động một cách tùy tiện, bất chấp quy luật, bất chấp quy định của pháp
luật và không vì lợi ích tối thượng của quốc gia - dân tộc. Cần thực
hiện nghiêm tinh thần của Đại hội XIII của Đảng: “Giải quyết hài hòa các
quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân”(33)./.
Nguồn:Tạp chí Cộng sản
|