Giá trị cốt lõi của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài
viết trình bày những sáng tạo lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh về con đường
xây dựng xã hội mới ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã
hội (CNXH) - một mô hình “cách mạng đến nơi” và xác lập được những giá trị cốt
lõi trong mô hình CNXH Việt Nam. Đây là cơ sở vững chắc để đấu tranh với những
luận điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận con đường đi lên CNXH ở
nước ta hiện nay.
1. Lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội - sự khẳng định giá trị
cốt lõi của mô hình “cách mạng đến nơi”
Về sự
lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta chỉ rõ:
đây là “sự lựa chọn của chính lịch sử”(1); gắn liền với tư duy sáng tạo, hợp lô
gíc và nhất quán của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Thực tiễn đã minh chứng, chủ
nghĩa xã hội là con đường duy nhất giải phóng dân tộc Việt Nam, là sự khẳng
định trong hiện thực giá trị của một mô hình “cách mạng đến nơi”.
Làm thế
nào để: “tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc”, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành. Đó là mong muốn, là mục đích và là động lực để Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh bôn ba khắp nơi trên thế giới tìm kiếm con đường thực hiện
mục tiêu đó. Sau gần 10 năm đi nhiều nước, đọc nhiều lý luận, học thuyết, học
hỏi nhiều kinh nghiệm, tiếp xúc với nhiều hạng người, chứng kiến trực tiếp văn
minh phương Tây, đồng thời hòa mình với cuộc sống của người lao động trong xã
hội tư bản, Người nhận ra rằng, cách mạng giải phóng của Việt Nam phải học tập
nhiều điều ở cách mạng Mỹ (1776) và cách mạng Pháp (1789), nhất là ở tinh thần cách
mạng của họ. Nhưng cách mạng Việt Nam có đi theo con đường của cách mạng Mỹ và
cách mạng Pháp không? Hồ Chí Minh khẳng định dứt khoát: con đường đó không phù
hợp với cách mạng Việt Nam. Bởi đó là những cuộc cách mạng chỉ đem lại quyền
lợi cho người giàu, là cuộc cách mạng “không đến nơi”. Theo Người: “Chúng ta đã
hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi
thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế
mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(2).
Trên
con đường khảo cứu thế giới, đặc biệt là những năm tháng hoạt động trong Đảng
Xã hội Pháp ở Pari đã đưa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin, đến với chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản. Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đã làm sáng tỏ trong Người tất cả những điều
đang trăn trở về con đường giải phóng dân tộc, nhân dân. Năm 1923, Nguyễn Ái
Quốc đến nước Nga Xô viết. Tình hình nước Nga khiến Người nhận thức sâu sắc sự
lạc hậu của chế độ phong kiến và sự tàn bạo của chế độ tư sản. Và sự xuất hiện
một chế độ xã hội mới, trong đó nhân dân lao động thực sự được giải phóng khỏi
áp bức bất công là một thực tiễn mà Người mơ ước thiết lập ở Việt Nam; là mô
hình “cách mạng đến nơi” mà Người đang khát khao kiếm tìm. Chính từ đây, Người
đi đến kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”(3), “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ”(4). Theo đó, con đường cách mạng Việt Nam cũng như nhiều
nước châu Á là phải giành độc lập hoàn toàn và tiến lên CNXH. CNXH là bước phát
triển tất yếu của độc lập dân tộc; cách mạng giải phóng dân tộc phải trở thành
cách mạng XHCN thì nền độc lập dân tộc mới được củng cố vững chắc, cách mạng
mới giành thắng lợi hoàn toàn.
Như
vậy, sự lựa chọn mục tiêu CNXH suy cho cùng là quyết định khách quan của lịch
sử. Và trong số những khối óc trăn trở tìm tòi con đường cứu nước, lịch sử đã
lựa chọn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - người duy nhất lúc đó nắm được cơ
hội lịch sử để thay đổi vận mệnh đất nước, thay đổi thân phận con người bằng
khát vọng mãnh liệt của dân tộc và của chính Người, thông qua sự nung nấu, trăn
trở và mài sắc tư duy theo thời gian của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chứ không
phải là sự chủ quan, nhất thời hoặc ngẫu nhiên, hay do vận may lịch sử.
2. Giải phóng con người, nhân dân lao động làm chủ xã hội là giá
trị cốt lõi của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH là một trong những nội dung trọng tâm của tư tưởng Hồ
Chí Minh; trong đó, những luận giải của Người về CNXH và con đường đi lên CNXH
ở Việt Nam là biểu trưng mẫu mực về sự thấm nhuần nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin, về tinh thần sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh
các nước thuộc địa. Đây là những luận điểm đặt tiền đề quan trọng và là kim chỉ
nam cho cho hành trình tới tương lai tươi sáng của dân tộc; là nền tảng vững
chắc cho việc tiếp tục phát triển hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện mới.
Trong
di sản lý luận của mình, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã đưa ra những dự đoán về xã hội
tương lai - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hai ông đã có công biến CNXH vốn là học
thuyết không tưởng thành học thuyết có cơ sở khoa học. Tuy vậy, do điều kiện
lịch sử, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ có thể dự đoán những
nét chủ yếu, chứ không thể nêu lên một cách chi tiết những quan niệm của mình về
xã hội tương lai. Hơn nữa, những dự đoán ấy được hình thành chủ yếu trên cơ sở
nghiên cứu hiện thực xã hội TBCN phát triển tương đối cao ở một số nước Tây Âu.
Vấn đề đặt ra là: chế độ cộng sản có thể áp dụng được ở châu Á nói chung và
Đông Dương nói riêng không? Có thể có một mô hình CNXH chung cho mọi quốc gia,
dân tộc không?
Về vấn
đề thứ nhất, ngay từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cho rằng cần xem
xét tình hình cụ thể ở lục địa châu Á về mặt lịch sử và địa lý. Bằng nhãn quan
chính trị sắc sảo và sự hiểu biết sâu rộng, trên cơ sở nghiên cứu, xem xét các
nước châu Á một cách toàn diện cả về lịch sử, xã hội - văn hoá, kinh tế, chính
trị... Người đi đến kết luận: “Bây giờ hãy xét những lý do lịch sử cho phép chủ
nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”(5). Bởi ở châu Á,
tư tưởng về cộng đồng xã hội, bình đẳng, giáo dục và đề cao giá trị nhân văn;
tư tưởng phải đấu tranh cho hạnh phúc của con người, đề cao nhân dân... đã phát
triển sớm, trở thành cơ sở thuận lợi để tiếp nhận tư tưởng của chủ nghĩa cộng
sản. Cuối thế kỷ XX, một sự thật lịch sử là trong khi một mô hình CNXH tan rã ở
các nước XHCN châu Âu, thì chế độ XHCN lại được củng cố và phát triển ở các
nước châu Á như Việt Nam, Trung Quốc... Thực tế đó đã chứng minh nhận định thiên
tài của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
Về vấn
đề thứ hai. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự đoán về
xã hội tương lai, song các ông không cho rằng, trong tương lai CNXH sẽ chỉ có
một mô hình duy nhất. CNXH về bản chất và mục tiêu là thống nhất, nhưng có
nhiều mô hình khác nhau, thể hiện sự đa dạng, phong phú trong việc lựa chọn con
đường đi lên CNXH. Mô hình CNXH ở mỗi quốc gia bao giờ cũng mang trong nó những
nét đặc thù về lịch sử, văn hóa, dân tộc của quốc gia đó.
Hồ Chí
Minh tiếp cận CNXH từ nhiều phương diện khác nhau: từ chủ nghĩa yêu nước và
khát vọng giải phóng dân tộc, từ phương diện đạo đức, từ góc độ văn hoá... Trên
các phương diện, Người đều thấy rằng, về bản chất, CNXH là một chế độ mới khác
biệt, một chế độ thực sự ưu việt, đầy tính nhân văn cao cả. “Chỉ có chủ nghĩa
cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm
cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc...”(6). Đối với
Việt Nam, CNXH là con đường phát triển tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sau này, trong lý luận nhận
thức về CNXH, Người khẳng định thêm nhiều luận điểm quan trọng: “Không có chế
độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo
đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa”(7); CNXH là “nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho
mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(8) ...
Giá trị
xuyên suốt và đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình CNXH gắn liền với
khát vọng cháy bỏng của Người; đó là xã hội giải phóng thật sự con người, xã
hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ
Chí Minh, xây dựng chế độ chính trị - xã hội ưu việt là nhằm giải phóng con
người về mặt chính trị. Khi đó, con người mới thực sự là mục tiêu theo ý nghĩa
chân chính của nó. Mặt khác, giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột và nô
dịch trong xã hội có giai cấp đối kháng là động lực mạnh mẽ, là công cụ chủ yếu
để khai thác và phát huy mọi khả năng vật chất và tinh thần của con người vào
sự phát triển xã hội. Xã hội XHCN, theo Hồ Chí Minh quan niệm, là một xã hội
trong đó con người được tự do, bình đẳng, hạnh phúc, phát triển toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ.
Ngay
sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã nêu những nhiệm
vụ cấp bách của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cả sáu vấn đề người đưa ra
đều liên quan đến con người và giải phóng con người. Đó là:
Nhân
dân đang đói, làm gì để thoát khỏi nạn đói.
Nhân
dân đang dốt, làm gì để thoát khỏi dốt.
Nhân
dân chưa được hưởng dân chủ, làm gì để nhân dân được hưởng tự do.
Nhân
dân bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện, phải làm gì để thoát khỏi nạn này.
Nhân
dân phải chịu nhiều thứ thuế, phải bỏ ngay các thứ thuế đó cho dân.
Nhân
dân bị thực dân chia rẽ, phải làm gì để đoàn kết nhân dân lại.
Trong
suốt quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH, Người thường xuyên nhắc nhở
Đảng và Chính phủ phải luôn chăm lo cho dân: việc gì có lợi cho dân thì hết sức
làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Trước lúc đi xa, Người căn dặn:
“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(9). Như vậy, yêu thương những con
người lao động, đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, bất
công, khỏi sự nghèo đói, dốt nát là điểm xuất phát trong cách tiếp cận mô hình
CNXH của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đặt con
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, CNXH là xã hội duy nhất mà quyền
con người trở thành hiện thực và có khả năng phát huy cao nhất mọi tiềm năng
con người (cá nhân, tập thể, cộng đồng). Với Hồ Chí Minh, con người là chủ thể
tích cực của lịch sử, nhân dân là giá trị quý báu nhất, cao nhất; của dân, tài
dân, sức dân là nguồn lực quan trọng nhất của phát triển. Không có dân ủng hộ
giúp đỡ thì cách mạng không có sức mạnh, không thể thành công. Không có dân thì
Đảng không có lực lượng. Có dân, được dân tin, dân yêu, dân phục, lại có đường
lối đúng để dẫn dắt dân tranh đấu thì việc khó mấy cũng giải quyết được.
Nói đến
quyền con người trong CNXH không thể không nói đến tư tưởng dân chủ. Dân chủ
XHCN chính là sự thể hiện quyền con người của cá nhân và cộng đồng ở mức cao
nhất. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân thì dân chủ là của quý báu nhất trên đời của nhân dân; dân chủ nghĩa
là: dân là chủ và dân làm chủ. Quan niệm đó thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa
tính nhân văn và tính pháp lý của dân chủ, được thể hiện thống nhất trong nội
hàm dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân và vì nhân dân. Nhưng để nhân dân thực hiện được
vai trò cách mạng của mình, đem lại hạnh phúc cho chính mình, cần phải có sự
lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới công việc thực
tế để xây dựng nền dân chủ tiến bộ thực sự của dân, do dân, vì dân. Người luôn
quan tâm xây dựng Đảng trên cả ba phương diện: tư tưởng, lý luận; đường lối
chính trị; tổ chức cán bộ. Người đòi hỏi Đảng phải thực sự là đạo đức, là văn
minh, cán bộ đảng viên phải “chính tâm”, “nghiêm pháp”; tuyệt đối trung thành
với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, ngoài ra không còn lợi ích nào khác.
Đảng và nhà nước không phải là “cứu tinh” của nhân dân mà có trách nhiệm phụng
sự nhân dân, là đày tớ của nhân dân. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
Đảng phải quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; chú trọng
nâng cao dân trí; đặt dân sinh, dân trí, dân chủ trong quan hệ thống nhất.
Khi xác
lập những đặc trưng cơ bản của CNXH, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin cũng nhấn mạnh, CNXH không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân
theo, không phải là những sắc lệnh từ trên xuống, mà nó là một phong trào hiện
thực, là sự nghiệp sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân. Vì thế, mọi sự gò
ép, bất chấp hiện thực, công thức hóa những tư tưởng lý luận trên thực tế đều
phải trả giá. CNXH hiện thực luôn phát triển, do đó quan niệm về nó cũng phải
được phát triển.
CNXH và
cách mạng XHCN ở Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản nhưng được diễn ra ở
một xứ thuộc địa không hoàn toàn giống một cuộc cách mạng do giai cấp vô sản
lãnh đạo ở phương Tây như các nhà kinh điển Mác - Lênin đã chỉ ra. Vì vậy, tính
cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi sự vận dụng cần phải “Xem
xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học
phương Đông”(10). Đồng thời, nó phải được cụ thể hóa, phát triển và hoàn thiện
trong quá trình cách mạng. Hơn nữa, CNXH và con đường đi lên CNXH có nhiều nội
dung, mỗi nội dung có quy luật phát triển riêng và luôn mang tính khả biến, gắn
với diễn trình lịch sử trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng. Bởi vậy, để
cách mạng thắng lợi, đòi hỏi trong nghiên cứu, hoạch định đường lối và chỉ đạo
thực tiễn phải có quan điểm lịch sử cụ thể và phát triển; phải thấy rõ, phân
tích và giải quyết tốt các mối liên hệ, có bước đi phù hợp và những điều kiện
cơ bản bảo đảm cho con đường cách mạng được hiện thực hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ tìm ra con đường cách mạng Việt Nam mà đã không ngừng phát triển hoàn
thiện nó qua các thời kỳ lịch sử với những quan điểm đúng đắn, sáng tạo.
Tính
cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định
con đường cách mạng Việt Nam đã được lịch sử kiểm chứng. Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, miền Bắc đi lên CNXH, sau chiến thắng 30-4-1975 cả nước đi lên CNXH.
Sự phát triển không ngừng của đất nước trước những cam go, thử thách và biến
động thăng trầm của lịch sử, những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam
trong gần thế kỷ qua càng chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Sự vận động của thực tiễn cách mạng đòi hỏi lý luận về mô hình
CNXH phải có bước phát triển mới. Việc xác định những đặc trưng cơ bản trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và tám đặc trưng
được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã phản ánh tổng
quát, toàn diện quan niệm về CNXH của Đảng ta, là sự tiếp nối kiên định, hiện
thực hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH trong điều kiện mới của đất
nước./.
----------------------------------
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.109.
(2) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.292.
(3),
(4), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr.30, 563, 415.
(5),
(6), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr.47, 496, 510.
(7) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.610.
(9) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.612.
PGS. TS Doãn Thị Chín, Học viện Báo chí và Tuyên tuyền
Theo:
lyluanchinhtri.vn