Di chúc – Điển hình sự giản dị, trong sáng phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh

Lý do chúng tôi chọn bản Di Chúc để tìm hiểu phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh là: Nếu “Yêu sách của nhân dân Việt Nam gửi hội nghị Versailles năm 1919” là văn bản đầu tiên thì chẵn nửa thế kỷ sau là bản Di Chúc.


Hồ Chí Minh: Cuộc đời và sự nghiệp.

1. Đây là tác phẩm cuối cùng của Người, hoàn thiện ngày 10.5.1969, chỉ gần bốn tháng trước ngày Người đi gặp các cụ Mác – Lênin. Đây là tác phẩm Người viết trong thời gian dài nhất: Chẵn bốn năm. Bác đặt bút khởi thảo từ 9h ngày 10.5.1965. Những lần tiếp theo Bác lại viết thêm một phần. Cho đến ngày 14.5 thì xong. Người tự tay đánh máy lại. Hôm ấy là ngày 14.5 nhưng không hiểu vì sao Bác lại đề: Hà Nội, ngày 15.5.1965. Từ đó hằng năm vào dịp ngày sinh của mình, Bác lại ngồi trước bản thảo ấy, xem lại, sửa chữa, bổ sung mà Người đề là “Tài liệu tuyệt đối bí mật” này.

Theo lời đồng chí Vũ Kỳ, thư ký riêng của Người thì “Bác đã suy nghĩ về việc này từ đầu những năm 1960, sau khi đi dự “Hội nghị Đại biểu các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế” tại Matxcơva về. Những bất đồng dẫn đến bất hòa giữa các Đảng anh em, nhất là việc đánh giá kẻ thù làm Bác suy nghĩ nhiều. Đế quốc Mỹ không bỏ lỡ cơ hội sẽ dấn sâu thêm bàn tay tội ác vào Việt Nam”.

Ai cũng vậy, trước khi đặt bút viết một cái gì, phải suy nghĩ về cái đó. Suy nghĩ bao lâu, có đến mức trăn trở, nghiền ngẫm là tùy theo tính chất quan trọng của việc đó, tùy vào tính cách, phương pháp làm việc của từng người. Về nội dung, “Di Chúc là một văn kiện lịch sử vô giá… kết tinh trong đó cả tư tưởng đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Người” (sđd). Vì thế, tìm hiểu nó sẽ rất có ý nghĩa và bổ ích cho chúng ta trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phương pháp tư tưởng và phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh.

Đây cũng là hiếm hoi một tác phẩm của Bác mà chúng ta tận mắt được đọc bản thảo viết tay, dù chỉ là trang đầu. Nay thì đã công bố toàn văn 7 trang viết tay lần thứ nhất Bác viết trong ngày 15.5.1965 có chữ ký của Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Lê Duẩn. Bản thứ hai Người viết sau đó ít năm, nhân dịp Bác 78 tuổi. Tháng 5.1968, Người lại thấy cần phải viết thêm mấy điểm: “Sau chiến thắng việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng. Đầu tiên là công việc đối với con người, cụ thể là công tác thương binh liệt sĩ và gia đình họ, bồi dưỡng những người trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang, phụ nữ, việc cải tạo nạn nhân của chế độ cũ, việc miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho nông dân”. Nhờ thế mới có cơ hội tìm hiểu quá trình Người hoàn chỉnh bản Di Chúc. Bài viết này chỉ giới hạn việc tìm hiểu trang bản thảo đó để suy ra đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Bác. Việc này không phải là suy diễn, vì có điều kiện tìm hiểu trước tác của Bác, các nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài đều nhận ra sự giản dị, trong sáng là nét chủ đạo và nhất quán trong phong cách ngôn ngữ của Người.

2. Theo logic thông thường, thì lẽ ra Di Chúc phải mở đầu từ câu: “Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời Đường, có câu rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy” nghĩa là “người thọ 70 xưa nay hiếm”.

Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần đầu óc vẫn sáng suốt như thường, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoại 70 xuân thì tuổi càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.

Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?

Vì vậy tôi để sẵn mấy lời này…” (Văn bản chính thức).

Theo đồng chí Vũ Kỳ (sđd) trong bản thảo đầu tiên viết ngày 10.5.1965 thì đấy đúng là phần mở đầu. Chỉ có điều vào thời điểm ấy số tuổi được tính là 75. Một phần đoạn văn ấy như sau: “Năm nay tôi đã 75 tuổi, tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh. Tuy vậy, tôi cũng đã là lớp người “xưa nay hiếm”. Còn bản thảo Bác sửa, trước lần cuối cùng thì phần ấy được viết như sau: “Năm nay, tôi vừa 78 tuổi, vào lớp những người “trung thọ”. Tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây” và thêm: “Người ta đến khi tuổi càng cao thì sức khỏe càng thấp. Đó là một điều bình thường.” Đến lần sửa sau cùng (10.5.1969), Bác thêm nhóm từ “như thường” sau từ “sáng suốt” để nhấn mạnh tình trạng tinh thần của mình. Bác sắp xếp lại vị trí từ “khi”, thay từ “đến” bằng từ “đã” nối với nhóm từ mới thêm “ngoại 70 xuân” khiến cho câu văn sáng hẳn ra, lại có thêm vẻ tươi vui, dí dỏm. Hãy so sánh: “Người ta đến khi tuổi càng cao thì sức khỏe càng thấp” thành “Khi người ta đã ngoại 70 xuân thì tuổi càng cao sức khỏe càng thấp.” Câu cuối đoạn văn: “Đó là một điều bình thường” chữa thành: “Điều đó cũng không có gì lạ”, thể hiện rõ tinh thần của người nắm chắc quy luật, luôn làm chủ được mình, làm chủ tình thế, làm chủ hoàn cảnh.

Vì lẽ gì mà Bác thay đổi bố cục, đưa đoạn mở đầu xuống sau, đưa “đoạn kết” lên đầu. Ở đây, nói “đoạn kết” không dùng với nghĩa là đoạn kết bản Di chúc, những lời dặn cuối cùng. Cái “đoạn kết” này nảy ra trong suy nghĩ, theo Bác suốt gần 10 năm, từ khi đi dự Hội nghị Đại biểu các Đảng cộng sản và Công nhân quốc tế về. Ấy là dự cảm chính trị về tình hình chia rẽ trong phe xã hội chủ nghĩa, là dự cảm chính trị Mỹ sẽ nhúng sâu bàn tay tội ác vào nước ta. Và thế tất, một cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, ác liệt sẽ xảy ra. Nhưng bất luận thế nào, kết quả cuối cùng chúng ta cũng thắng lợi hoàn toàn.

Chính là Người có ý khẳng định, muốn làm nổi bật tư tưởng chiến lược ấy, quyết tâm chiến lược ấy, niềm tin thắng lợi ấy nên mới đưa “đoạn kết” lên đầu. Đúng ra là Bác đưa “kết cục”, “chung cục” của cuộc chiến ác liệt mà Người khẳng định sẽ thuộc về ta lên đầu Di Chúc. Bởi sau đó, Người còn dành một đoạn khá dài nói về cuộc kháng chiến chống Mỹ kia mà. Đấy là chuyện của văn phong (vào đề bằng lối trực khởi) hay là chuyện của phương pháp tư tưởng, của tư duy biện chứng, của tinh thần lãng mạn cách mạng, của nhà tiên tri cách mạng Nguyễn Ái Quốc như ta từng biết.

3. Tháng 5.1921, trong bài “Phong trào cộng sản quốc tế” (tạp chí La Revue Communiste số 15) Nguyễn Ái Quốc đã tiên đoán Trung Hoa dân quốc sẽ trở thành nước cộng sản, bắt tay với Liên Xô. Tháng 3.1924 trong tập san Inprekorr, Nguyễn Ái Quốc đã tiên đoán về chiến tranh thế giới thứ II, cũng là cuộc đọ sức giữa nước Nga với chủ nghĩa tư bản. Tháng 2.1942 trong bài diễn ca lịch sử nước ta, Nguyễn Ái Quốc cũng đã tiên đoán: “1945 Việt Nam độc lập”. Ngày 12.4.1999, chuẩn bị kỷniệm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khi trả lời báo chí phỏng vấn đã kể, ngay khi ông gặp Bác sau chiến thắng, Người đã bảo: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đáng mừng, nhưng chú hãy nhớ lấy, đây mới là bắt đầu. Bắt đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ta còn phải đánh Mỹ”.

Tìm hiểu phương pháp tư tưởng của Người thể hiện trong tư duy ngôn ngữ ở trang đầu bản Di Chúc là điều cực kỳ bổ ích, lý thú, cả về phương pháp tư tưởng và cách diễn đạt. Câu mở đầu bản Di Chúc (chính thức), thoạt đầu Bác viết là “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nhất định thắng lợi hoàn toàn”.

Về hình thức, đây là câu đơn, khẳng định. Về nội dung, câu văn khẳng định niềm tin chắc chắn vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc chống Mỹ. Là người nắm chắc quy luật vận động của lịch sử xã hội, niềm tin ấy có cơ sở khoa học. Nhưng dù sao câu văn mới đề cập đến mặt chủ quan của vấn đề. Cần thiết phải đề cập thêm mặt khách quan thì điều khẳng định mới thật chắc chắn. Chính vì vậy Bác mới mở rộng thành phần câu bằng cách thêm vào giữa câu một ngữ. Ngữ này, thoạt đầu Bác viết là: “Dù phải kinh qua nhiều gian khổ hy sinh”. Đây là câu giả định đề cập đến mặt khách quan (phía địch). Chúng có thể gây cho ta nhiều gian khổ hy sinh. Đấy là cách nhìn biện chứng, cách nhìn thực tế. Đấy là thái độ chấp nhận để đạt được mục đích cuối cùng.

Nhưng như vậy thì chẳng hóa ra chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ bằng hải quân, không quân từ đầu đến đó chưa gây ra nhiều hy sinh gian khổ cho đồng bào ta hay sao? Vì thế, lần thứ ba Bác sửa lại, chuyển từ “nhiều” xuống cuối ngữ này. Và tính tới sự ác liệt nhất định sẽ tăng lên, Bác thêm nhóm từ “hơn nữa” vào cuối ngữ trên thành “nhiều hơn nữa”. Cuối cùng để hoàn chỉnh lập luận, Bác thêm từ “song” vào giữa hai vế. Sự chặt chẽ của từ này tạo nên hai tác dụng: Phủ định vế đứng trước nó, khẳng định vế đứng sau nó. Cuối cùng thành câu phức hợp: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song, nhất định thắng lợi hoàn toàn”. Đây là lần sửa cuối cùng vào 9h ngày 10.5.1969.

4. Nhìn vào bản thảo viết tay của Bác, thấy rất rõ Bác đã sửa như thế nào. Những phần thêm vào, Bác đánh dấu v, viết bằng mực đỏ. Phần thêm vào ở phần mới thêm, Bác lại đánh dấu v, rồi viết thêm.

Như đã nói, Bác muốn nội dung tinh thần của đoạn mở đầu này tác động trước tiên vào lý trí, tình cảm của nhân dân ta trước các điều khác sẽ nói. Bởi nó là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt Di Chúc. Nội dung tinh thần câu mở đầu ấy còn được lặp lại ở phần sau (nửa cuối bản Di Chúc, trong một đoạn văn khá dài): “Cuộc kháng chiến chống Mỹ còn có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta cũng phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn…”.

Đó cũng là tư tưởng chỉ đạo cả một giai đoạn cách mạng mà Bác đã hình dung ra ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ, mà vào thời điểm này (1969) đang đi vào chặng quyết chiến chiến lược cuối cùng. Hơn một năm sau khi Bác đặt bút khởi thảo bản Di Chúc, ngày 17.7.1966, trong lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, Bác cũng nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, Song, nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Cách diễn đạt ngôn từ có phần khác nhau, nhưng nội dung tư tưởng vẫn là một. Vẫn là một chất thép tư tưởng cách mạng, là tính kiên định của lập trường độ lập tự do. Đó là xương sống trong những bài viết của Bác, trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Đấy vừa là nội dung, vừa là hình thức, vừa là tư tưởng, vừa là văn phong của Bác.

Vậy là việc đưa “đoạn kết” lên thành đoạn mở đầu là kết quả của một phương pháp tư tưởng đúng đắn và sáng suốt. Lời mở đầu ấy tác động vô cùng mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta và cả bạn bè thế giới qua giọng đọc xúc động của đồng chí Lê Duẩn trên quảng trường Ba Đình trong lễ truy điệu Người.

Quyết tâm chiến lược của Người đã trở thành sự thật sau đó chỉ hơn 3 năm, tính đến trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội (12.1972), dù năm 1973 Mỹ mới chịu ký Hiệp định Pari, quân Mỹ mới cút khỏi miền Nam và hai năm nữa với chiến dịch mang tên Người, chế độ Sài Gòn mới đổ nhào.

Thắng lợi ấy là “viễn cảnh” tính từ 10.5.1965; nếu tính từ 10.5.1969 thì đó là “trung cảnh”. Trong Di Chúc, câu văn của Bác cứ nhẹ tênh, tự nhiên và hiển nhiên như một “cận cảnh”. “Sáng nay, Bác vừa yêu cầu đồng chí Vũ Kỳ sắp xếp lịch đi công tác các địa phương. Chắc chắn đồng bào Nam Bộ sẽ được ưu tiên trước. “Cận cảnh” tươi vui này mới đầu được Bác thảo như sau: “Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp 2 miền Nam Bắc để thăm hỏi đồng bào, cán bộ và chiến sĩ, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta”.

Lần sửa cuối cùng (10.5.1969), Bác thay từ “chúc mừng” cho từ “thăm hỏi”. Thêm từ “anh hùng” vào sau từ “chiến sĩ”.

Việc thay hai từ ấy là thay đổi một nhận thức, một sự đánh giá. Nó chỉ ra rằng, chính đồng bào, cán bộ, chiến sĩ làm nên thắng lợi nên họ phải được “chúc mừng”. Từ “thăm hỏi” không phù hợp, nó chỉ là một việc bình thường như nhiều việc khác trong đời sống. Với từ “chúc mừng”, Bác đã suy tôn vai trò của quần chúng nhân dân dân trong công cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước. Chính vì quan niệm ấy mà Bác thêm từ “anh hùng” để làm rõ hơn lý do đánh giá của mình đối với những người làm nên thắng lợi.

5. Sau những giờ phút xúc động trước “tổn thất này vô cùng lớn lao, đau thương này thật là vô hạn” (Điếu văn của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam), mọi người dân Việt Nam mới bình tâm thấm thía từng lời Bác dặn trước lúc đi xa. Như trong kế hoạch công tác, đồng chí Vũ Kỳ đã sắp xếp, “Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm viếng và cảm ơn các nước anh em trong phe XHCN và các nước bầu bạn đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ chúng ta trong công cuộc chống Mỹ cứu nước”. Sau đó, không rõ vào năm nào Bác sửa lại là: “Kế đó tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước trong phe XHCN và bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta”. Về kết cấu, cơ bản không có gì khác nhau. Bác chỉ thay đổi vị trí và cách dùng từ. Thay từ “chúng ta” (ở phần cuối câu) bằng nhóm từ “nhân dân ta”; bỏ từ “viếng” và thêm nhóm từ “khắp năm châu” để bổ ngữ cho từ “bầu bạn”. Về nội dung, mới đọc, tưởng như không có gì khác nhau. Nhưng ngẫm thêm thì việc sửa này xuất phát từ nhận thức chính trị. Nhận thức này xuất phát từ thực tế lịch sử cuộc chống Mỹ mà nhân dân ta tiến hành lúc đó.

Từ “viếng” được bỏ đi cho thấy sự chính xác trong cách dùng từ của Bác. Bây giờ, nhiều khi báo chí ta vẫn dùng từ ghép “viếng thăm”/“thăm viếng” để đưa tin những cuộc đi thăm của các vị nguyên thủ quốc gia nước ngoài đến ta. Tuy cùng một ý nghĩa đạo lý nhưng nội hàm của chúng rất khác nhau. “Thăm” là đến với người khác lúc người ta đang sống. “Viếng” là đến với người ta lúc đã chết. Không thể ghép hai từ ấy lại như nhiều người vẫn dùng trong văn nói, càng kỵ hơn khi viết trong trường hợp với người sống.

Thêm nhóm từ “khắp năm châu” không có nghĩa là Bác có kế hoạch đi thăm tất cả các nước ở cả năm châu đã từng ủng hộ và giúp đỡ ta. Điều ấy là không thể. Có nước giúp đỡ nhiều, nước giúp đỡ ít, nước ủng hộ nhiều, nước ủng hộ có mức độ. Làm sao đi hết được. Thật ra, đó chỉ là cách để xác định không gian chúng ta có bầu bạn. Trên trái đất này, nơi nào có con người thì nơi ấy ta có bầu bạn, kể cả ở nước Mỹ. Dùng nhóm từ này, còn thể hiện sự chu đáo, trân trọng của nhân dân ta, biết ơn mọi sự giúp đỡ và ủng hộ nhiều cũng như ít, tinh thần cũng như vật chất, trực tiếp cũng như gián tiếp, gần cũng như xa, vừa làm sáng tỏ tính chất chính nghĩa cuộc kháng chiến nhân dân ta đang tiến hành.

Ta cứ tưởng nhóm từ “nhân dân ta” và nhóm từ “chúng ta” không có gì khác nhau, dùng thế chỗ cho nhau cũng được. Ở cương vị Người đứng đầu nhà nước khi dùng nhóm từ “nhân dân ta” sẽ làm sáng tỏ sự thống nhất trên dưới một lòng giữa Đảng cầm quyền, nhà nước và nhân dân, sẽ có lợi hơn khi tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ rộng rãi của tất cả những người có lương tri trên thế giới, kể cả những người chưa hiểu bản chất chế độ nhà nước ta. Trong trường hợp ấy, bạn dễ đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ một sự nghiệp của nhân dân hơn là công việc của nhà nước. Dùng từ “chúng ta” nghe dễ bị hiểu nghiêng về tư cách nhà nước hơn.

Thế còn, “ủng hộ và giúp đỡ nhân dân ta trong cuộc chống Mỹ cứu nước” và “ủng hộ giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta” thì khác nhau thế nào mà Bác phải đảo lại? Nếu là “ủng hộ và giúp đỡ nhân dân ta…” thì điều đó chỉ có nghĩa là bạn có quan hệ tốt với nhân dân ta, có thiện ý với ta, do đó sẽ vì nhân dân ta mà ủng hộ. Đối tượng mà bạn quan tâm là “nhân dân ta” chứ chưa hẳn là sự nghiệp mà nhân dân ta tiến hành. Trong cuộc sống hằng ngày, giữa các mối quan hệ cá nhân vẫn có những chuyện như thế. Vì nể nhau, vì muốn giữ quan hệ truyền thống với nhau mà ủng hộ nhau. Trong trường hợp ấy (cả việc ta đang tìm hiểu và ví dụ trong quan hệ sống) “nhân dân ta”, “ta” phải mang ơn bạn nhiều hơn vì bạn đã đối xử tốt với mình.

Còn “ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta” thì tinh thần khác nhiều. Bên trên là “đối tượng” giúp đỡ ủng hộ, bên dưới là công việc mà đối tượng ấy tiến hành. Vượt lên trên mối quan hệ giữa hai bên, lấy công việc của bạn làm trọng nên ủng hộ và giúp đỡ. Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta được bạn bè coi như lý tưởng của mình, việc ủng hộ giúp đỡ nhân dân ta trở thành nghĩa vụ quốc tế của bạn, dù chế độ khác nhau. Thời ấy, tất cả những ai có lương tri trên thế giới đều ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam là vì lẽ ấy. Việt Nam trở thành lương tâm thời đại là vì lẽ ấy.

6. Thời ấy, chống Mỹ được bạn bè coi là sứ mệnh thiêng liêng mà nhân loại trao cho dân tộc ta. Đối với các nước XHCN thì bạn ủng hộ giúp đỡ nhân dân ta vì cả hai lẽ, cả quan hệ đồng chí, anh em và cả sự ngiệp chống Mỹ của ta. Nhưng với nhiều trường hợp khác thì không hẳn như vậy. Nhiều bạn chưa hiểu ta, không chung đường lối chính trị với ta, nhưng chỉ vì ta đánh Mỹ mà ủng hộ giúp đỡ, rồi từ đó mới hiểu ta hơn, mới có quan hệ hợp tác với ta sau này. Thời ấy, nào ta đã có quan hệ gì với Venezuela, nhưng những người du kích nước ấy đã bắt một đại tá Mỹ làm con tin để đổi lấy việc Mỹ phải thả anh Nguyễn Văn Trỗi. Đến giờ, quan hệ quốc tế chúng ta mở rộng, ta sẵn sàng làm bạn với tất cả, đa phương hóa, đa dạng hóa mọi quan hệ quốc tế nên được ủng hộ giúp đỡ nhiều như thế; kể cả việc bạn bè ủng hộ ta vào ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, chắc chắn có nguồn gốc lịch sử từ thời ta chống Mỹ, chứ không phải chỉ là kết quả của đường lối ngoại giao cởi mở và vị thế của ta trên trường quốc tế bây giờ.

Trong tác phẩm “Chống thói ba hoa” (1947), Bác đã dạy cán bộ cách viết: “Sau khi viết phải xem đi xem lại 3, 4 lần. Nếu là tài liệu quan trọng phải xem đi xem lại 9, 10 lần”. Việc Bác sửa đi sửa lại nhiều lần, trong một thời gian dài với một sự cẩn trọng và khoa học đến mức ấy là một bài học lớn về phương pháp tư tưởng, lề lối làm việc của người cầm bút. Cho nên câu văn của Người bao giờ cũng chứa đựng những tư tưởng sâu sắc và tinh tế, bao giờ cũng giản dị và trong sáng như cuộc đời của Người.

Sáng ngày 28.8.2019, triển lãm “Hồ Chí Minh: Cuộc đời và sự nghiệp từ tài liệu lưu trữ Việt Nam và quốc tế” được khai mạc tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Đây là hoạt động thiết thực nhân dịp kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 – 2019). Triển lãm do Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Việt Nam phối hợp với Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng 3 cơ quan Lưu trữ Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp và Hoa Kỳ  tổ chức. Ban Tổ chức triển lãm đã lựa chọn công bố, giới thiệu hơn 100 tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người. Trong đó có bản Di Chúc thiêng liêng – sự kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image




Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
Đăng nhập