Chính sách “Chiêu hiền đãi sĩ” của Hồ Chí Minh và chế độ mới sau Cách mạng Tháng Tám
Cách mạng Tháng Tám và tư tưởng, tài năng, phong cách của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã có sức hút, sức tác động lạ kỳ. Nếu coi bản chất của cuộc cách
mạng chân chính là văn hóa, thì việc thực hành văn hóa, nâng tầm văn hóa của cả
dân tộc cũng là thực hành một cuộc cách mạng to lớn và sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu trí thức dự
Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3/1964
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng ta lãnh
đạo, nhân dân ta đồng sức đồng lòng, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, làm nên một sự
kiện long trời, lở đất, thay đổi căn bản số phận của cả dân tộc và mỗi người
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân
dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức
nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách
mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh
đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đã tạo bước ngoặt sâu sắc, mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao; xây đắp một chế độ xã hội mới mẻ, tốt
tươi, đẹp đẽ ở Việt Nam; thể hiện đầy đủ, sâu sắc và sinh động bản chất dân
chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Thắng lợi vẻ vang đó là
động lực, là mục tiêu cao cả, là niềm cảm hứng to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta viết tiếp trang sử mới của một thời đại mới vì niềm tự hào,
tự tôn dân tộc, vì phẩm giá con người. Nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu thơ hào
sảng, lay động: “Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh / Thổi
phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời” (Huế tháng Tám); Nhà thơ Nguyễn Đình
Thi reo vui: “Mùa thu nay khác rồi / Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi /
Gió thổi rừng tre phấp phới / Trời thu thay áo mới / Trong biếc nói cười thiết
tha” (Đất nước). Trong âm nhạc, Nhạc sĩ Bùi Công Kỳ với ca khúc “Ba
Đình Nắng”, phổ thơ Vũ Hoàng Địch, đã cất lên những giai điệu tự hào, kiêu
hãnh: “Gió vút lên ngọn cờ trên kỳ đài phơi phới/ Gió vút lên đây
bao nguồn sống mới dạt dào/ Tôi về đây lắng nghe bao tiếng gọi/ Của mùa thu
cách mạng, mùa vàng sao… ”.
Ngay từ những ngày đầu và nhiều năm tháng sau
đó, Cách mạng Tháng Tám và nguồn sáng tin yêu từ lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trở
thành niềm kiêu hãnh, sức kết nối và lan tỏa của triệu triệu con tim, thành
niềm cảm hứng lớn lao, trong trẻo, ào ạt của cả dân tộc đang tự tin vươn về
phía trước. Với tầm nhìn thời đại, tầm vóc văn hóa, bản lĩnh chính trị, cùng
với việc đề cao tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Chính phủ đã rất yêu quý, tôn trọng nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ. Và
như một sự đáp đền, rất nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ tỏ rõ sự yêu kính,
ngưỡng mộ và biết ơn cách mạng, biết ơn Chủ tịch Hồ CHí Minh - hiện thân
cao cả của Đảng, của Chính phủ và chế độ mới, nhất tâm đi theo con đường sáng
mà Cách mạng Tháng Tám đã khai mở.
Để xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho công cuộc
kháng chiến kiến quốc nhiều hy sinh, gian khổ ở phía trước, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thực thi nhiều biện pháp nhằm phát hiện, tập hợp, sử dụng, trọng
dụng nhân tài; giúp đỡ thế hệ trí thức mới tiến bộ, đào tạo họ thành những những
trí thức “chính tâm và thân dân”(1). Trong bộ máy của Chính phủ lâm thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã mời ông Vĩnh Thuỵ (vua Bảo Đại của chế độ cũ) làm cố vấn
Chính phủ, khá nhiều bộ trưởng, thứ trưởng là nhân sĩ, trí thức đã tham chính.
Cụ Hồ xác định, cùng với chống “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc ngoại xâm, thì phải
kiên quyết, nhanh chóng củng cố và tăng cường bộ máy chính quyền, thực thi
quyền dân chủ của nhân dân “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy
định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức”. Chính phủ lâm thời tổ chức chu đáo,
khẩn trương việc soạn thảo Hiến pháp cùng các công việc cho Tổng tuyển cử. Bản
dự án Hiến pháp được Hội đồng Chính Phủ thảo luận, sửa đổi, bổ sung, công bố
trên báo chí và gửi văn bản đến tận các làng, xã, thôn, bản xin ý kiến đóng góp
của các tầng lớp nhân dân. Ngày 1/1/1946, Chính phủ lâm thời tự cải tổ thành
Chính phủ Liên hiệp lâm thời, tiếp tục mở rộng thành phần là những người có tên
tuổi, có uy tín, là nhân sĩ, trí thức tiêu biểu như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên
Giáp, Trần Huy Liệu, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Tố, Lê Văn Hiến, Phạm Văn Đồng, Vũ
Đình Hoè, Cù Huy Cận… và một số thành viên khác của Việt Quốc, Việt Cách.
Trước ngày diễn ra cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên
bầu Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu: “Ngày mai mồng 6 tháng giêng năm 1946. Ngày
mai là một ngày sẽ đưa Quốc dân ta lên con đường mới mẻ. Ngày mai là một ngày
vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là
một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng
quyền dân chủ của mình…”, “Ngày mai, quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng
dân Việt Nam ta đã: Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ, Kiên quyết chống bọn thực
dân, Kiên quyết tranh quyền độc lập”.
Qua những lần bổ sung và thông qua Tổng tuyển
cử bầu cử Quốc hội, trong thành phần Quốc hội, Chính phủ có thêm sự
tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức nổi tiếng như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ
Nguyễn Văn Tố, cụ Bùi Bằng Đoàn… Trong bài viết “Nhân tài và Kiến quốc”, đăng
báo Cứu quốc, số ra ngày 14/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kiến
thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta
khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát
triển, càng thêm nhiều”. Người nhấn mạnh: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến
thiết cần phải có nhân tài... E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp,
đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Chính phủ mới, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ là người Việt Nam đang sinh sống
và làm việc ở nước ngoài đã tự nguyện rời bỏ cuộc sống nơi phồn hoa, trở về Tổ
quốc tham gia kháng chiến kiến quốc đầy gian khổ, thiếu thốn, như Hoàng Minh
Giám, Vũ Ðình Tụng, Tạ Quang Bửu, Phan Anh, Phạm Quang Lễ (tức Trần Ðại Nghĩa),
Trần Hữu Tước, Lương Ðịnh Của, Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển,
Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch, Ðặng Văn Ngữ, Trịnh Ðình Thảo,
Trần Đức Thảo, Ngụy Như Kon Tum... và nhiều người khác.
Câu chuyện nhà khoa học trẻ Phạm Quang Lễ du
học ở Pháp từ năm 1935, tốt nghiệp kỹ sư và cử nhân tại 5 trường đại học danh
tiếng của Pháp, từng làm việc tại Trường Quốc gia Hàng không và Vũ trụ Pháp,
sau đó sang Đức làm việc trong xưởng chế tạo máy bay và Viện nghiên cứu vũ khí
của Đức. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kết thúc chuyến thăm nước Pháp vào ngày
18/9/1946, Phạm Quang Lễ cùng với ba trí thức trẻ khác là Võ Quý Huân, Trần Hữu
Tước, Vũ Đình Quỳnh theo Người về nước. Trong điều kiện rất khó khăn, thiếu
thốn ở chiến khu Việt Bắc, ông đã triển khai nghiên cứu, chế tạo vũ khí cho
quân đội non trẻ của ta. Tên mới Trần Đại Nghĩa là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
cho ông. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa đã chủ trì nghiên cứu, tổ chức chế tạo thành công
nhiều loại vũ khí đang rất cần cho bộ đội ta, phù hợp với thực tế chiến trường
và cách đánh của ta. Điển hình là súng và đạn Bazôka để đánh xe tăng, xe bọc
thép và lô cốt địch; súng không giật (SKZ) cỡ 60mm gây cho kẻ địch nhiều thất
bại và nỗi kinh hoàng.
|
GS. Đặng Văn Ngữ giới
thiệu với Bác Hồ về công việc của bộ môn Ký sinh trùng (Đại học Y – Dược)
(nguồn: tiasang.com.vn).
|
Bác
sĩ Đặng Văn Ngữ đang sống và làm việc tại Nhật Bản đã nghe theo tiếng gọi của
Tổ quốc, trở về nước với tài sản quý nhất là các giống nấm kháng sinh để chế
tạo thuốc penicillin và streptomycin đang rất cần cho bộ đội và nhân dân ta
trong cuộc chiến đấu chống xâm lược Pháp và sau này là đế quốc Mỹ. Năm 1955,
ông sáng lập và làm Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng và côn trùng Việt
Nam, tập trung nghiên cứu phòng chống và điều trị căn bệnh sốt rét tại Việt
Nam. Năm 1967, ông hy sinh ở chiến trường miền Nam khi đang tập trung nghiên
cứu việc phòng chống căn bệnh sốt rét.
Nhà nông học Lương Định Của sinh ra ở Sóc
Trăng, lên Sài Gòn học xong tú tài, năm 1937, ông sang Hồng Kông học Đại học Y
Khoa sau đó sang Thượng Hải, Trung Quốc học Đại học Kinh tế. Đến 1940, trường
này đóng cửa do chiến tranh, Lương Định Của sang Nhật, thi vào Đại học Quốc lập
Kyushu, khoa Sinh vật thực nghiệm. Năm 1946, ông lên Kyoto tiếp tục theo học
ngành nông nghiệp, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ nông học chuyên ngành di
truyền chọn giống. Ông còn được nhận Bằng khen của Viện Nghiên cứu sinh học
Kihata cho công trình “Sự sinh sản của giống lúa lai tạo từ hai giống lúa
Japonica và Indica”. Những nghiên cứu và sáng tạo khoa học của ông được giới
chuyên môn quốc tế đánh giá rất cao, coi ông là một trong những nhà nông học
hàng đầu của thế giới lúc đó. Đang ở đỉnh cao vinh quang, Lương Định Của quyết
định đưa gia đình về nước, vợ ông là bà Nubuko Nakamura, người Nhật Bản. Ông
làm việc ở Viện Khảo cứu Bộ Canh nông (Sài Gòn) mấy năm, đến năm 1954, ông cùng
gia đình tập kết ra Bắc, làm việc tại Viện Khảo cứu Nông lâm, trường Đại học
Nông nghiệp, Viện Cây lương thực và thực phẩm, còn vợ ông - bà Nubuko Nakamura
làm phát thanh viên tiếng Nhật tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Lương Định Của đã lai
tạo thành công nhiều giống lúa, giống cây, giống rau cho năng suất cao, chất
lượng tốt, đào tạo nhiều cán bộ khoa học hàng đầu cho ngành nông nghiệp nước
nhà.
Cách mạng Tháng Tám và tư tưởng, tài năng,
phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sức hút, sức tác động lạ kỳ. Nếu coi
bản chất của cuộc cách mạng chân chính là văn hóa, thì việc thực hành văn hóa,
nâng tầm văn hóa của cả dân tộc cũng là thực hành một cuộc cách mạng to lớn và
sâu sắc. Đường lối văn hoá kháng chiến “văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến
hóa văn hóa” của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện đầy đủ trong Chỉ
thị “Kháng chiến kiến quốc” ra ngày 25/11/1945 của Ban Thường vụ Trung ương
Đảng; được sáng tỏ, nhấn mạnh trong bức thư “Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong
công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay” của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ
tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất
(11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy
hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”. Người chỉ rõ “Tây phương hay
Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam, trau
dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh
thần dân chủ”. Người nhấn mạnh: “Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải
làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa
phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Tâm lý của ta lại còn
muốn lấy tự do, độc lập làm gốc. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng
tự chủ, độc lập, tự do”… “Số phận dân ta là ở trong tay ta. Văn hóa phải soi
đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường
và tự chủ”.
“Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị.
Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn
hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ…”. (Hồ
Chí Minh)
|
Trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội
họa (năm 1951) ở chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa
nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
Người đề cao vai trò xung kích của văn hóa trong sứ mệnh giải phóng dân tộc,
giải phóng con người. Văn hóa cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân
sự... phải tạo thành những mặt trận có sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc. “Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể
đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”; “chính trị, kinh tế, văn hóa
đều “phải coi là quan trọng ngang nhau”.
Cũng như giới nhân sĩ, trí thức, nhà khoa học,
đội ngũ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ thế hệ Cách mạng Tháng Tám
cũng ngập tràn niềm vui và hạnh phúc trước sự đổi vận, đổi đời của dân tộc, của
nhân dân mình. “Nước cũ bốn nghìn năm / Theo cờ mới, trẻ như hai mươi
tuổi”( Ngọn quốc kì - Xuân Diệu), “Có mối tình nào hơn thế nữa?/ Ăn
sâu lòng đất thấm lòng người/ Đượm lều tranh, thơm dậy ngàn khơi/ Khi vui non
nước cùng cười/ Khi căm non nước với người đứng lên!” (Tình sông núi -
Trần Mai Ninh…). Từ đây, đội ngũ văn nghệ sĩ thuộc nhiều loại hình văn học,
nghệ thuật cùng dân tộc đi vào cuộc kháng chiến thần thánh chống xâm lược Pháp.
Họ đồng cam cộng khổ, gắn bó bền chặt với đời sống công, nông, binh; khám phá,
ngợi ca và góp phần nhân lên niềm tin, sức mạnh, ý chí quyết chiến và quyết
thắng của cả dân tộc. Những tên tuổi tiêu biểu được khẳng định và tiếp tục có
những sáng tạo mới, thành công mới. Về văn học là các nhà văn, nhà thơ Tố Hữu,
Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng,
Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu, Hoài Thanh, Thôi Hữu, Hoàng Trung Thông, Chính
Hữu, Hồng Nguyên, Võ Huy Tâm, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Tô
Hoài, Nguyên Hồng, Nông Quốc Chấn, Hồ Phương, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Chế Lan
Viên, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nguyễn Xuân Sanh, Trần Huyền Trân, Lưu Trọng Lư,
Anh Thơ, Vũ Tú Nam, Bùi Hiển, Nguyễn Văn Bổng, Kim Lân, Trần Hữu Thung, Tế
Hanh, Nguyễn Khải, Giang Nam, Hữu Loan, Bàn Tài Đoàn, Tú Mỡ… Về sân khấu có các
nhà biên kịch, đạo diễn như Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang
Thuận, Ngô Tất Tố, Vũ Lăng ... Về âm nhạc, có các nhạc sỹ Văn Cao, Đinh
Nhu, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, Xuân Oanh, Nguyễn Thành,
Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Đình Thi, Lương Ngọc Trác, Hoàng
Việt, Lê Yên, Phan Huỳnh Điểu… Về mỹ thuật có các họa sỹ Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân
Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn
Văn Tỵ, Nguyễn Sĩ Ngọc, Trần Lưu Hậu, Diệp Minh Châu, Lưu Công Nhân, Trọng
Kiệm, Lê Lam, Nguyễn Thị Kim, Lương Xuân Nhị…Về điện ảnh, nhiếp ảnh, trong hoàn
cảnh rất thiếu thốn về máy móc, phương tiện, vật liệu, các nghệ sỹ của ta như
Nguyễn Bá Khoản, Võ An Ninh, Mai Lộc, Phan Nghiêm, Vũ Năng An, Nguyễn Hồng
Nghi, Nguyễn Thế Đoàn, Khương Mễ, Pham Văn Khoa đã chụp và quay được những bức
ảnh, những đoạn phim tài liệu rất quý về Ngày Độc lập 2/9/1945, về nạn đói năm
Ất Daauh 1945, sự kiện lịch sử Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pháp trở về (1946), Pháp
tấn công phố Hàng Than và Trận đánh tại Ô Cầu Dền (1946), Trận đánh đồn Mộc Hóa
của Tiểu đoàn 307 (1948), Chiến dịch Biên giới ở Đông Khê
(1950)… Trong số các nhà văn, nghệ sỹ thời kháng chiến chống Pháp, có
những người đã hy sinh anh dũng như Nam Cao, Trần Đăng, Trần Mai Ninh,
Thôi Hữu, Tô Ngọc Vân.
Đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân dưới ngọn
cờ của Đảng, nhiều thế hệ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ tiếp tục trở
thành người chiến sĩ trong các cuộc trường chinh đánh thắng hai đế quốc to là
Pháp và Mỹ, đánh thắng bè lúc bành trướng xâm lược và diệt chủng ở hai đầu đất
nước, đưa đất nước vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà
nước đã tặng thưởng nhiều hội đoàn, tổ chức làm công tác văn hóa, văn nghệ,
khoa học, kỹ thuật; các trí thức, văn nghệ sỹ Huân chương Sao Vàng, Huân chương
Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà
nước, danh hiệu Nghệ sỹ Nhân dân, Nghệ sỹ Ưu tú và nhiều phần thưởng cao quý
khác.
Đến nay, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của
Việt Nam liên tục tăng. Các nhà khoa học đang đi đầu trong công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; hai năm qua là cuộc chiến phòng, chống
đại dịch COVID-19, nghiên cứu phát triển bộ kit xét nghiệm, phần mềm ứng dụng
khai báo y tế, truy vết người nghi nhiễm, khám chữa bệnh từ xa, điều chế
vaccine và thuốc điều trị COVID-19.
Đảng, Nhà ước khẳng định quan điểm coi văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, là nguồn sức mạnh nội sinh, là động lực to
lớn để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; con người luôn
được đặt ở vị trí trung tâm trong mọi chiến lược phát triển đất nước; khâu đột
phá đầu tiên và rất quan trọng là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả nguồn
nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao, trong đó, tầng lớp trí
thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ là đội ngũ tài năng của dân tộc, từ đó góp phần
nâng tầm trí tuệ, tầm văn hóa của dân tộc, sức mạnh nổi trội của đất nước./.
Nguồn:tuyengiao.vn