Xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới
Thể chế là một trong số ít yếu tố giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia nói chung hay trong từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội nói riêng. Thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển, thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển. Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng và xây dựng được một thể chế phát triển phù hợp, hiệu quả. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh định hướng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Nội dung và cấu trúc của thể chế phát triển nhanh và bền vững
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2003, thể chế là: “Những quy tắc và tổ chức, bao gồm cả các chuẩn mực không chính thức, phối hợp hành vi con người. Hệ thống chuẩn mực không chính thức bao gồm cả lòng tin và các giá trị xã hội (trong đó có cả những chuẩn mực lâu đời chi phối các hành vi xã hội) đến các cơ chế và mạng lưới phối hợp không chính thức. Trong khi đó, hệ thống thể chế chính thức, bao gồm luật pháp, các văn bản quy phạm pháp luật khác, các thủ tục cũng như các chủ thể chịu trách nhiệm xây dựng, sửa đổi, giải thích và thi hành các luật lệ và quy chế đó. Do các thể chế điều khiển hành vi con người nên một khi nó hoạt động tốt thì sẽ cho phép con người làm việc với nhau hiệu quả, cùng hợp tác trong lập kế hoạch cho bản thân, gia đình và cộng đồng nói chung. Ngược lại, nếu chúng hoạt động yếu kém hoặc không hiệu quả thì sẽ gây ra sự mất lòng tin và/hoặc tình trạng bất ổn định trong nhiều lĩnh vực”.
Thể chế phát triển nhanh và bền vững chính là các yếu tố tạo thành khung khổ pháp lý, quy định trật tự và phương thức vận hành các quan hệ của con người nhằm mục đích đạt được sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Như vậy có thể thấy, thể chế phát triển là một cấu trúc đồng bộ bởi ba thành tố chính: 1- Hệ thống pháp luật và các quy định, chuẩn mực tạo thành hành lang pháp lý cho sự vận hành của các mối quan hệ con người trong xã hội; 2- Tổ chức bộ máy và hoạt động của các chủ thể của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và nhân dân; 3- Cơ chế vận hành tạo thành môi trường - “sân chơi” mà các chủ thể hoạt động. Trong ngôn ngữ truyền thông, người ta còn có thể gọi ba thành tố trên là “luật chơi”, “người chơi” và “sân chơi”. Thể chế phát triển đúng đắn đòi hỏi trước hết là tính khoa học, hợp lý và phù hợp với trình độ thực tế, điều kiện cụ thể của từng thành tố; đồng thời, bảo đảm sự đồng bộ, hài hòa giữa ba thành tố trên. Trong thể chế phát triển, các chủ thể tham gia, bao gồm các chủ thể xây dựng và quyết định khung khổ pháp luật, cơ chế, chính sách; các chủ thể thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách; các chủ thể giám sát, kiểm tra việc thực thi thể chế. Khung khổ pháp luật hay còn gọi là “luật chơi” cũng bao gồm “luật chơi” đối với những người xây dựng và ban hành luật pháp, cơ chế, chính sách; “luật chơi” cho các đối tượng thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách; “luật chơi” đối với các chủ thể giám sát, kiểm tra việc thực thi thể chế. Cả các chủ thể tham gia và “luật chơi” phải phù hợp với bản chất và trình độ phát triển của môi trường mà các chủ thể hoạt động, bao gồm môi trường chung và môi trường của từng lĩnh vực cụ thể.
Theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, thể chế phát triển nhanh và bền vững là một tổng thể hữu cơ các thể chế phát triển thành phần, bao gồm thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội, thể chế môi trường sinh thái, trong đó thể chế chính trị giữ vai trò quyết định. Trong các chủ thể tham gia, chủ thể Nhà nước có vị trí đặc biệt về tư cách đa diện: Nhà nước vừa là người quyết định luật chơi, người tổ chức thực thi luật chơi, người kiểm soát quá trình thực thi luật chơi, vừa là người chơi khi thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các chủ thể khác và toàn xã hội trong thực thi thể chế. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội định hướng xã hội chủ nghĩa, các chủ thể khác trong xã hội không chỉ đóng vai trò thực thi “luật chơi”, mà còn là chủ nhân của xã hội, tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện “luật chơi”, giám sát việc thực thi “luật chơi”.
Vai trò của thể chế đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: 1- Xác lập nền tảng pháp lý cho cấu trúc và cơ chế vận hành nền chính trị - kinh tế - xã hội của quốc gia; xác lập cơ chế phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; xác lập địa vị, vai trò, trách nhiệm, quyền và lợi ích của các chủ thể trong quá trình phát triển, nhất là vai trò của Nhà nước; 2- Đưa ra đường lối, chiến lược, mô hình, mục tiêu phát triển; xác định hệ giá trị phát triển; định hướng và điều tiết sự phát triển của xã hội phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan; 3- Xác lập mô hình và thể chế nhà nước, nền hành chính để thực thi quyền lực chính trị gắn với sự phát triển mọi mặt của xã hội; phòng ngừa và ngăn chặn sự suy thoái, tha hóa của quyền lực; 4- Tạo lập khung pháp lý và điều kiện để kiến tạo và phát triển năng lực các chủ thể, phát huy đúng vai trò của từng loại chủ thể; liên kết các chủ thể, các nguồn lực, các yếu tố theo những mô hình phát triển có hiệu quả; giúp cho mọi hoạt động của các chủ thể trở nên minh bạch hơn, tin cậy hơn, giảm thiểu “xung đột” trong quá trình tương tác với nhau; 5- Tạo lập cơ chế, chính sách huy động và phân bổ mọi nguồn lực cho sự phát triển; tạo động lực phát triển (động lực tinh thần, động lực pháp lý, động lực lợi ích, động lực đạo đức...), nhất là động lực cộng hưởng thông qua sự liên kết giữa các chủ thể và các yếu tố; điều tiết hài hòa lợi ích phát triển giữa các chủ thể; 6- Tạo lập “sân chơi” lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, phù hợp, hiệu quả đối với các chủ thể trong từng lĩnh vực; 7- Tạo lập khung khổ pháp lý phù hợp để hội nhập quốc tế có hiệu quả cao, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; 8- Tạo lập và thực thi cơ chế vận hành và kiểm soát thực thi thể chế có hiệu quả; khắc phục, phòng ngừa các rủi ro, tiêu cực.
Trong thể chế phát triển nhanh và bền vững, thể chế chính trị có các vai trò chủ yếu sau: 1- Xác lập quyền lực chính trị, sử dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, giá trị và mục tiêu của thể chế chính trị; tạo lập đồng thuận xã hội, ý chí dân tộc; 2- Xây dựng thể chế nhà nước, bộ máy công quyền tinh gọn, hoạt động minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; 3- Xác lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa; gắn quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội của tất cả chủ thể (Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các đơn vị, cá nhân và người dân); 4- Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng - tha hóa quyền lực, lợi ích nhóm, chủ nghĩa thân hữu; 5- Quy tụ được lòng người, gắn kết được các giá trị của tất cả chủ thể trong xã hội trong những định hướng, mục tiêu phát triển chung đúng đắn; 6- Kết nối sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, với những giá trị chung của nhân loại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Thể chế kinh tế có các vai trò chủ yếu sau: 1- Xác lập quyền tự do sản xuất, kinh doanh, quyền tài sản, lợi ích kinh tế của tất cả chủ thể; 2- Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp, hiệu quả; 3- Xác lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, tạo ra “sân chơi” tích cực cho mọi tổ chức, cá nhân tham gia phát triển kinh tế; 4- Xây dựng mô hình tăng trưởng - phát triển theo chiều sâu, phù hợp, hiệu quả; 5- Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho sự phát triển chung của đất nước.
Thể chế xã hội có các vai trò chủ yếu sau: 1- Xây dựng hệ thống an sinh xã hội, bảo đảm đời sống, việc làm; 2- Bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội; 3- Bảo đảm an ninh xã hội, trật tự, an toàn xã hội; 4- Bảo đảm các điều kiện ngày càng thuận lợi cho sự phát triển văn hóa, xã hội và con người được phát triển ngày càng toàn diện, cuộc sống ngày càng hạnh phúc.
Thể chế môi trường sinh thái: có vai trò bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa con người, xã hội và tự nhiên, bảo vệ môi trường bền vững cho cuộc sống của con người và các thế hệ mai sau.
Thể chế phát triển nhanh và bền vững được xây dựng phù hợp, có chất lượng sẽ bảo đảm sự tăng trưởng - phát triển với tốc độ tương đối cao (cả về số lượng, quy mô, chất lượng, hiệu quả). Bảo đảm sự tăng trưởng - phát triển đồng bộ giữa các lĩnh vực, không ngừng làm tăng nội lực và tính độc lập - tự chủ của quốc gia. Bảo đảm tính bền vững trong quá trình phát triển cả về chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái và quốc phòng, an ninh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với môi trường thế giới có nhiều biến động đột biến, khó lường.
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển nhanh và bền vững
Ở Việt Nam, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định phải đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị; kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và thực hiện chính sách xã hội; đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp. Trong đổi mới kinh tế, đặt trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đổi mới chính trị đặt trọng tâm vào đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương xã hội. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng đã xác định mối quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị” là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ Đại hội VI (năm 1986), nhận thức của Đảng về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên tục được bổ sung và hoàn thiện. Đến Đại hội XI (năm 2011) Đảng đã xác định, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính là một đột phá chiến lược. Tuy nhiên, cho đến trước Đại hội XI, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng (dựa chủ yếu vào nguồn lực đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực trình độ thấp; công nghệ thấp...). Mặc dù vậy, sự phù hợp của trình độ thể chế kinh tế thị trường trong giai đoạn này đã tạo động lực quan trọng để đưa đất nước phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được quốc tế ghi nhận. Mặt khác, Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ những hạn chế cơ bản của thể chế phát triển theo chiều rộng, làm cho động lực phát triển đất nước bị suy giảm đáng kể. Từ đó, Đại hội XI xác định yêu cầu tất yếu khách quan và cấp thiết của việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng - phát triển theo chiều sâu; dựa chủ yếu vào nguồn lực khoa học - công nghệ.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII (năm 2016) đã rút ra kết luận, việc chuyển đổi thể chế kinh tế thị trường sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo còn nhiều bất cập, chưa có hiệu quả cao; đồng thời, đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Điều này cho thấy, yêu cầu lớn đặt ra là phải xây dựng thể chế phát triển đồng bộ theo chiều sâu, bảo đảm đất nước phát triển nhanh - bền vững.
Trong mối quan hệ chặt chẽ với thể chế kinh tế, thể chế chính trị đất nước cũng được quan tâm, không ngừng cập nhật với điều kiện thực tế, yêu cầu đổi mới và hoàn thiện. Từ nhận thức về các trụ cột đường lối: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, nhận thức của Đảng về thể chế chính trị ngày càng rõ hơn, trên cơ sở đó, thể chế chính trị của đất nước cũng không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước.
Với vai trò là yếu tố then chốt bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm đặc biệt. Trước hết, Đảng có nhận thức mới về sứ mệnh của mình, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Liên tục trong 3 nhiệm kỳ đại hội gần đây, Trung ương Đảng đều dành kỳ họp lần thứ tư để ra nghị quyết chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó đề ra những chủ trương mới về công tác xây dựng Đảng trên các bình diện tư tưởng, tổ chức, kiểm tra, dân vận và các lĩnh vực khác. Cùng với đó, Đảng nhấn mạnh yêu cầu tăng cường vai trò cầm quyền trong điều kiện mới. Trên cơ sở nhận thức, đánh giá về vai trò, trách nhiệm và hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng và đưa vào thực hiện nhiều quy định, chế độ về hoạt động của tổ chức đảng, trách nhiệm của đảng viên; mối quan hệ của tổ chức đảng, đảng viên với nhân dân; về nhân dân tham gia công tác xây dựng Đảng; về chế độ dân chủ và kỷ luật trong Đảng,...
Nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bắt đầu từ nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Trên cơ sở đó, mô hình tổ chức, bộ máy, cơ chế hoạt động của một kiểu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật, dần dần được xây dựng và hoàn thiện. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Nhận thức của Đảng về xã hội cũng không ngừng được làm rõ trong quá trình đổi mới. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được coi trọng. Con người được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, vì thế con người là trung tâm của mọi chiến lược, mọi chính sách phát triển. Hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu tối thượng của Đảng, của chế độ. Để đạt được mục tiêu ấy, việc đề ra và giải quyết các chính sách xã hội, con người cần đặt trong mối quan hệ tổng thể chặt chẽ, hợp lý. Lần đầu tiên, tại Đại hội XII của Đảng, Đảng đưa ra đường lối “quản lý phát triển xã hội”, đặt các chính sách về văn hóa, xã hội, con người trong mối quan hệ chặt chẽ, với tầm nhìn, định hướng chiến lược chung và các giải pháp đồng bộ.
Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trở thành một cơ sở quan trọng căn bản cho việc ban hành Hiến pháp năm 2013, trong đó hiến định nhiều điểm mới về chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, chế độ kinh tế, về tổ chức, bộ máy nhà nước... Cùng với Hiến pháp năm 2013, một hệ thống luật pháp đã được xây dựng và ban hành, cơ bản bao phủ các lĩnh vực của đời sống xã hội cần điều chỉnh. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện là cơ sở cho sự vận hành thuận lợi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị và việc thực thi, bảo vệ các quyền, nghĩa vụ của tổ chức, công dân.
Từ tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã rút ra một trong số 5 bài học kinh nghiệm là tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ trong phát triển đất nước.
Từ thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng (2021) đã đưa ra “Tầm nhìn và định hướng phát triển” đất nước trong giai đoạn mới, yêu cầu phải đẩy mạnh đổi mới tư duy phát triển, đưa công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ lên một tầm cao mới, phát triển nhanh và bền vững, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, để thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội XIII của Đảng chính thức xác định, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Những định hướng chủ yếu xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới
Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt được các mục tiêu này, đất nước cần chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào nguồn lực con người chất lượng cao, vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điều này đòi hỏi xây dựng và tổ chức thực hiện một thể chế phát triển nhanh và bền vững, trong đó bảo đảm sự đồng bộ giữa thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế bảo vệ môi trường sinh thái, hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh yêu cầu phát triển nhanh, hội nhập với môi trường quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khó lường, có nhiều cơ hội lớn gắn liền với những thách thức không nhỏ, đặt ra yêu cầu về mối quan hệ biện chứng trong thể chế phát triển là: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước”; thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm; thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội, thể chế bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò bảo đảm sự phát triển hài hòa với tự nhiên. Sự đúng đắn, hợp lý và đồng bộ trong thể chế phát triển là điều kiện bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị
Trong bối cảnh phát triển mới, thể chế chính trị (trước hết thể hiện ở vai trò lãnh đạo - cầm quyền của Đảng) đòi hỏi phải đổi mới có “tính vượt trước”, tính định hướng dẫn đường, thể hiện ở nắm bắt xu thế phát triển của thế giới, nhu cầu phát triển khách quan của đất nước, để định ra đường lối, chiến lược, mục tiêu, mô hình phát triển có luận cứ khoa học - thực tiễn đúng đắn, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: Nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị; nâng cao năng lực định hướng và hoạch định chiến lược, chính sách phát triển, năng lực dự báo và điều chỉnh chiến lược phát triển; xác định, xây dựng, thực thi, bảo vệ và tôn vinh các giá trị con người, giá trị công dân, giá trị xã hội, giá trị cộng đồng, giá trị dân tộc; nhất là các giá trị dân chủ, sáng tạo, trách nhiệm xã hội, đáp ứng với yêu cầu phát triển mới. Đây là động lực nội sinh cốt lõi của sự phát triển bền vững. Trên cơ sở xác định rõ và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, triển khai xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Về Đảng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo - cầm quyền, định hướng chiến lược phát triển, thật sự là lực lượng tiêu biểu về “trí tuệ, đạo đức, văn minh” (Chủ tịch Hồ Chí Minh), đây là nhân tố quyết định trong việc lãnh đạo xây dựng và thực thi hiệu lực, hiệu quả thể chế phát triển nhanh và bền vững. Phải hoàn thiện thể chế để Đảng thực hiện tốt vai trò và sứ mệnh đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc..., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều đó đặt ra yêu cầu Đảng phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức, cơ chế lãnh đạo hệ thống chính trị, nhất là lãnh đạo, cầm quyền đối với Nhà nước (phù hợp với từng nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp).
Tiếp tục hoàn thiện thể chế dân chủ trong Đảng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhất là cán bộ cao cấp, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức. Dân chủ trong Đảng phải trở thành biểu tượng dân chủ trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực trong Đảng gắn đồng bộ với thể chế kiểm soát quyền lực trong hệ thống nhà nước và từ xã hội.
Hoàn thiện đồng bộ thể chế Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, thực sự là “công bộc của dân”, gắn bó với nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc cao hơn lợi ích cá nhân, có đủ phẩm chất và năng lực thực thi hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Về Nhà nước: Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Nhà nước quản lý - quản trị phát triển thực sự “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, thượng tôn pháp luật, với bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả. Hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tha hóa quyền lực, lợi ích nhóm, chủ nghĩa tư bản thân hữu, quan liêu, xa dân. Xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch, “liêm chính - kỷ cương - hành động - sáng tạo - hiệu quả”. Nâng cao năng lực xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách, năng lực chỉ đạo tổ chức thực hiện; nâng cao năng lực “phản ứng” chính sách trong bối cảnh biến đổi phức tạp và nhanh chóng của thế giới, khu vực. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý nhà nước trong tất cả lĩnh vực theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền; xây dựng hệ thống chính quyền từ Trung ương xuống cơ sở (cả nông thôn và thành thị) theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “thực đức - thực tài”, thực sự là “công bộc của dân”.
Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng chiến lược và hoàn thiện hệ thống chính sách hợp tác, hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới (chung và cụ thể cho từng lĩnh vực). Trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn ra phức tạp, nhiều biến động khó lường, đòi hỏi chủ động điều chỉnh kịp thời chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa có tầm nhìn dài hạn, vừa ứng phó hiệu quả, giảm tác động tiêu cực đối với sự phát triển của đất nước; có những đối sách để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Đẩy mạnh tham gia vào các quan hệ đa phương và song phương; tham gia vào các chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và các giải pháp để thực hiện hiệu quả các điều ước và cam kết quốc tế.
Đặc biệt, cần tiếp tục nghiên cứu và thực hiện việc xây dựng, hoàn thiện trên thực tế mô hình tổ chức hệ thống chính trị Việt Nam phù hợp với tính chất, đòi hỏi của chế độ, các điều kiện của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn sắp tới. Yêu cầu đặt ra là xây dựng được một hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ một cách hài hòa, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam, theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế
Hoàn thiện thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “Nhà nước mạnh, thị trường hiệu quả, xã hội (doanh nghiệp và người dân) năng động, sáng tạo”; nhằm tạo sự cộng hưởng phát huy những mặt mạnh của Nhà nước, thị trường và xã hội; đồng thời, hạn chế, khắc phục những bất cập, “thất bại” của cả Nhà nước, thị trường và xã hội, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhà nước mạnh không phải là Nhà nước “to” về bộ máy, đông về đội ngũ công chức, mà phải là một Nhà nước pháp quyền phát triển, quản trị phát triển, có chiến lược phát triển đúng đắn, mạnh về xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển, mạnh về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức; mạnh về quản lý vĩ mô, về năng lực quản lý, quản trị phát triển, mạnh về năng lực phản ứng chính sách trước những biến đổi của môi trường phát triển...
Hoàn thiện thể chế để nâng cao chất lượng kinh tế vĩ mô, đây là yêu cầu quan trọng đi liền với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng và thực thi hiệu quả mô hình và cơ chế, chính sách chuyển đổi sang phát triển theo chiều sâu (chung của cả nền kinh tế và riêng từng ngành, lĩnh vực). Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại đầu tư (nhất là thể chế đầu tư công), theo hướng công khai, minh bạch, nâng cao tính cạnh tranh, nâng cao chế độ trách nhiệm, giảm tối đa thủ tục hành chính.
Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy phát triển đồng bộ, hiệu quả các khu vực, thành phần kinh tế (Nhà nước, tư nhân, tập thể,...), nhằm phát huy cao vai trò khách quan của từng khu vực, chủ thể. Xây dựng thể chế kết nối các thành phần kinh tế (vốn đang có rất ít kết nối với nhau), trở thành một thực thể hữu cơ, gắn kết với nhau, thúc đẩy phát triển mạnh nội lực nền kinh tế dân tộc. Nâng cao tính độc lập - tự chủ của nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và thị trường nước ngoài. Điều chỉnh định hướng, chiến lược và cơ chế, chính sách thu hút FDI để nâng cao chất lượng và hiệu quả tổng hợp đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân theo chiều sâu, cả về quy mô và chất lượng.
Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế mang tính vượt trội để kịp thời đón nhận phát triển các phương thức sản xuất, kinh doanh mới (đang hình thành và phát triển nhanh, như kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng chuỗi khối (blockchain)...). Đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ mới, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ứng dụng phù hợp, hiệu quả vào sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế sở hữu, trong đó có thể chế đất đai. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch; đẩy mạnh việc cắt giảm điều kiện và thủ tục sản xuất, kinh doanh. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất, kinh doanh giữa các chủ thể, theo hướng có sự chia sẻ về trách nhiệm, quyền lợi, rủi ro... để tạo lập các chuỗi sản xuất, kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững; tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển xã hội
Hoàn thiện thể chế và thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, tập trung vào các nội dung sau:
Hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm sự phân phối, điều tiết tương đối hài hòa cơ hội phát triển, thành quả, lợi ích phát triển giữa các tầng lớp xã hội, giữa các khu vực; hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách giảm nghèo bền vững (theo cách tiếp cận đa chiều); hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội; chú trọng tới các đối tượng yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, để “không để ai tụt lại phía sau”.
Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách phát huy cao độ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư trong việc tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và trong hoạt động “tự chủ - tự quản” theo pháp luật, vì lợi ích của các thành viên. Thực hiện hiệu quả dân chủ xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở; xây dựng và thực thi hiệu quả cơ chế giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các tổ chức đảng và Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến quốc kế dân sinh, đến quyền và lợi ích của người dân.
Thực hiện hiệu quả quyền tiếp cận thông tin của nhân dân; các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước, cán bộ và đảng viên phải thực thi nghiêm túc trách nhiệm giải trình; xử lý nghiêm, công khai, minh bạch các vi phạm pháp luật (không có vùng cấm), để nâng cao lòng tin của nhân dân, sự đồng thuận xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, lại là một trong những nước chịu sự tác động mạnh của biến đổi khí hậu, do đó vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái là một nội dung hữu cơ, trọng yếu của phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, cần quán triệt và thực thi nghiêm túc quan điểm “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”; xác định vấn đề bảo vệ và sử dụng có hiệu quả, bền vững các tài nguyên của đất nước (như đất, nước, khoáng sản...) là một nội dung quan trọng của an ninh quốc gia.
Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội phải bao hàm nội dung bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng và phát triển bền vững (hướng tới xây dựng và phát triển nền kinh tế xanh, sử dụng năng lượng xanh, sản xuất xanh và tiêu dùng xanh). Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng phá hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị và nông thôn. Xây dựng chiến lược và thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp công trình và phi công trình trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở các địa phương, trong từng lĩnh vực; phấn đấu hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Nâng cao năng lực và ý thức trách nhiệm của tất cả các chủ thể
Xây dựng thể chế phát triển có chất lượng và thực thi hiệu quả đòi hỏi thực hiện đồng bộ các giải pháp và cơ chế, chính sách để nâng cao năng lực của tất cả chủ thể, gắn với phát triển theo chiều sâu (như năng lực ban hành thể chế, lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện thể chế, năng lực thực thi thể chế...). Phải chế định các cơ chế và thiết chế thực thi thể chế nghiêm túc, “nói đi đôi với làm”, “thượng tôn pháp luật”. Sự đồng bộ giữa ban hành và thực thi thể chế đòi hỏi phải nâng cao năng lực, trình độ và ý thức trách nhiệm của tất cả chủ thể, từ người dân đến lãnh đạo các cấp. Chất lượng của thể chế và hiệu lực, hiệu quả thực thi thể chế của tất cả chủ thể là nhân tố quyết định bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
Để nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của tất cả chủ thể tham gia xây dựng, phát triển đất nước, vấn đề quan trọng là phải tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, thông qua dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Hoàn thiện cơ chế quan hệ và vận hành giữa các yếu tố Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc thực thi và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp nhằm đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như phát huy trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, góp phần quản lý xã hội./.
Nguồn:Tạp chí Cộng sản
|