Xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam
Ngày 24/11, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng với tựa đề:
“Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu:
|
Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.
|
“Kính thưa các đồng chí lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu,
Thưa toàn thể các đồng chí,
Hôm nay, tại Thủ đô Hà Nội - "nơi lắng hồn núi sông
ngàn năm"; "nơi hội tụ, kết tinh và toả sáng nền văn hoá,
văn minh của Dân tộc"; "Thủ đô của lương tri và phẩm giá
con người"; "Thành phố vì hoà bình"; "hào
hoa và thanh lịch"; "văn hiến và anh hùng";... chúng
ta long trọng tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc để triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực văn hoá. Đây là một
việc làm rất có ý nghĩa về nhiều phương diện; tôi rất vui mừng
và hào hứng được đến dự Hội nghị này. Sở dĩ tôi nói như vậy là
vì 3 lý do:
- Vị trí, vai trò quan trọng của văn hoá: Văn hoá là hồn
cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn
hoá còn thì Dân tộc còn,...
- 75 năm nay (từ ngày
24/11/1946), hôm nay mới lại có Hội nghị toàn quốc về văn hoá với quy mô lớn
thế này.
- Họp sau Đại hội Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận, Khối Nội
chính; và sắp tới sẽ còn có Hội nghị về đối ngoại và về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần tôi vẫn nói: "Tiền hô hậu
ủng", "Nhất hô bá ứng", "Trên dưới đồng lòng" và
"Dọc ngang thông suốt".
Trước hết, tôi xin gửi
đến các vị đại biểu, các vị khách quý cùng toàn thể các đồng chí lời chào thân
ái, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chúc Hội nghị của
chúng ta thành công tốt đẹp.
Thưa các đồng chí,
Chúng ta đều đã biết, Văn hoá là một phạm trù rất rộng, có thể
được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau với nhiều cách tiếp cận khác nhau, rất
phong phú, đa dạng. Đến nay, trên thế giới có tới gần 200 định nghĩa khác nhau
về Văn hoá. Nhưng chung quy có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Nghĩa rộng: thì văn hoá là trình độ phát triển về tinh
thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định (thời kỳ
đồ đá, thời kỳ đồ đồng,... văn hoá Đông Sơn, văn hoá lúa nước,...). Nghĩa
hẹp: thì văn hoá là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có
những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức (lối sống,
cách cư xử, ứng xử giữa người với người,...). Văn hoá cũng bao gồm cả văn
hoá vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hoá, di
sản văn hoá, những sản phẩm văn hoá: Kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...)
và phi vật thể (ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục,
tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). Văn
hoá chúng ta bàn ở đây chủ yếu là theo nghĩa hẹp.
Nhưng dù theo nghĩa
rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hoá là nói đến những gì là tinh hoa,
tinh tuý nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp,
cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ
(một con người có văn hoá, một gia đình có văn hoá, một dân tộc có văn hoá; lối
sống văn hoá, nếp sống văn hoá, cách ứng xử có văn hoá,...). Còn những gì xấu
xa, việc làm ti tiện, đớn hèn, những hành động phi pháp, bỉ ổi... là vô văn
hoá, phi văn hoá, phản văn hoá. Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ
nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được
sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng.
Việt Nam là một đất nước có hơn 4 nghìn năm lịch sử, trải qua
không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây
ra, đã tích luỹ, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hoá riêng
của Dân tộc, làm nên hồn cốt của Dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần đóng
góp vào nền văn hoá chung của nhân loại. Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai
trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hoá trong sự phát triển của đất nước ta,
dân tộc ta, cho nên ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hoá
của dân tộc; và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã
đề ra "Đề cương văn hoá Việt Nam", trong đó chỉ rõ
"Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn
hoá)", và chủ trương phát triển văn hoá theo ba hướng: Dân tộc -
Khoa học - Đại chúng. Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng
trong Văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội
ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp nhân dân phát huy vai trò của văn hoá, thống
nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho cách
mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945.
Trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược,
với khẩu hiệu "Văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn
hoá", "xây dựng đời sống mới", văn hoá Việt Nam đã thực
sự trở thành động lực tinh thần để huy động tất cả mọi nguồn lực cho cuộc kháng
chiến, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu", năm 1954.
Sau chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ, cả nước ta đã tập trung vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giành thống nhất nước nhà,
Đảng ta đã thường xuyên quan tâm đến công tác văn hoá, động viên và cổ vũ đội
ngũ văn nghệ sĩ và những lực lượng làm công tác văn hoá phát huy vai trò của
mình trong việc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 đã xác định mục tiêu của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa về văn hoá và áp dụng những nhận thức đó vào việc
xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, thiết thực, phục vụ sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Đảng ta đã nhấn mạnh đến công tác phát triển nền văn nghệ, báo chí,
xuất bản, truyền thanh, điện ảnh, thư viện, bảo tồn bảo tàng, nâng cao tính tư
tưởng, tính chiến đấu, tính quần chúng của các công việc đó. Đồng thời, Đảng ta
cũng đã đặc biệt quan tâm đến công tác văn hoá quần chúng, xây dựng các hoạt
động và các thiết chế văn hoá ở cơ sở, nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn
hoá mới, cải tạo các thói quen và nếp sống cũ, xây dựng thói quen và lối sống
mới.
Sự lãnh đạo của Đảng trong suốt thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1975
đã góp phần phát huy vai trò của văn hoá Việt Nam thực hiện nhiệm vụ vừa
kiến quốc, vừa kháng chiến, huy động được các binh chủng, các lực
lượng làm công tác văn hoá của toàn dân tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, giành Đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn
về một mối. Lời kêu gọi thiết tha, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"; "Nước Việt Nam là một, Dân
tộc Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao
giờ thay đổi!" đã trở thành lẽ sống thiêng liêng của mỗi người
dân Việt Nam, là hồn cốt thiêng liêng của Văn hoá Việt Nam!; "Giặc đến nhà
đàn bà cũng đánh!"; thậm chí "Còn cái lai quần cũng đánh!" (chị
Út Tịch). Đồng thời: "Đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại
hiền như xưa!".
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đánh giá rất cao về
những đóng góp của Ngành văn hoá, văn học nghệ thuật Việt Nam trong sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khẳng định: Nền văn hoá, văn nghệ nước ta xứng
đáng đứng vào "Vị trí tiên phong của nền văn hoá văn nghệ chống đế
quốc, phong kiến trên phạm vi toàn thế giới trong thời đại ngày nay".
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta chẳng những là Lãnh tụ thiên tài,
Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn là Nhà văn hoá kiệt xuất,
được thế giới phong tặng danh hiệu vẻ vang "Danh nhân văn hoá thế
giới"! (cùng với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An và
mới hôm qua có thêm: Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương).
Từ năm 1975 đến năm
1985 là giai đoạn bản lề chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, đất nước ta phải
khắc phục hàng loạt những hậu quả của chiến tranh, khôi phục lại các cơ sở kinh
tế, văn hoá, giáo dục bị tàn phá; thống nhất về thể chế và thiết chế văn hoá
trên phạm vi cả nước. Đồng bào cả nước đã đồng cam, cộng khổ, tuyệt đối tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng để vượt qua những thách thức do cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội và tình hình phức tạp của quốc tế lúc đó gây ra.
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chúng ta đã tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh vực của
đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng
và đối ngoại. Riêng về lĩnh vực văn hoá, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết
định, chỉ thị rất quan trọng để tập trung xây dựng và phát triển văn hoá trong
thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu đã đạt được về lĩnh vực văn
hoá những năm đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4
khoá VII và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII năm 1998 về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đây là những nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hoá Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã chọn
8 lĩnh vực để tập trung chỉ đạo, trong đó quan trọng nhất là vấn đề xây dựng
con người với trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011), Đảng ta đã xác định, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc
trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong
đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Tiếp đó là Nghị quyết số 33 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương khoá XI năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hoá, con
người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong Nghị quyết
này, Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm, nhiệm vụ mà Nghị quyết Trung
ương 5 khoá VIII đã nêu; đồng thời bổ sung, nhấn mạnh một số vấn đề mới, khẳng
định mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ của văn hoá. Về mục tiêu chung, Đảng ta chỉ
rõ: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân
- thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân
chủ và khoa học; làm cho văn hoá phải thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng ta nhấn mạnh,
văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; làm rõ đặc
trưng của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học; nhấn mạnh trọng tâm của việc
xây dựng văn hoá là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp…
Trong Nghị quyết này, Đảng ta đã xác định một số nhiệm vụ mới là
xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế; phát triển các ngành
công nghiệp văn hoá và hoàn thiện thị trường văn hoá. Bộ Chính trị
khoá XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển
văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Nhắc lại một cách vắn tắt như vậy để muốn khẳng định rằng: Từ
ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hoá và hết
sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hoá trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Nhận thức của Đảng về văn hoá ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.
Đảng ta xác định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất
nước; xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: "Văn hoá soi đường cho quốc
dân đi"! Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế thừa những truyền thống
văn hoá tốt đẹp của Dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu,
tinh hoa văn hoá của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh
vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức,
thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Đồng thời, Đảng ta khẳng
định: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển;
phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
nghiệp đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc
sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu
chí của phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào
lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của
tiến bộ, văn minh.
Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hoá là
xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường
văn hoá lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hoá và chính trị, văn hoá
và kinh tế; xây dựng văn hoá trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng
văn hoá công chức, văn hoá công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự
nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng ta cũng đã xác định, chủ thể xây dựng và
phát triển văn hoá là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ
thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng; nhấn
mạnh đến phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong nước và
nước ngoài để phát triển văn hoá.
Như vậy, nhận thức của
Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới đã từng bước
được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc hơn. Đây
là tiền đề rất cơ bản để chúng ta quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện
trong thực tế.
Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí,
Nhìn lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển
văn hoá Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới
gần đây, chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hoá vào
sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc. Những thành tựu nổi bật cần khẳng định là nhận
thức về văn hoá ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại
hình; các sản phẩm văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới,
nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá của
dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hoá trong chính trị và trong
kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn
hoá và thị trường văn hoá có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội
nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước
trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh,
phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi
sai trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng
trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá" đã được biểu dương, lan toả vào đời
sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn
hoá nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung.
Nhân dịp này, tôi xin
được thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiệt liệt hoan nghênh, chúc mừng,
biểu dương và cảm ơn những đóng góp to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn thể
cán bộ, đảng viên và đặc biệt là của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của các lực
lượng tham gia trên mặt trận văn hoá trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng
cần nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn
hoá, tìm ra nguyên nhân và giải pháp để khắc phục. Hạn chế, yếu kém nổi bật
được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá chưa được các cấp, các ngành nhận
thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh
tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự
phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây dựng con người chưa
được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí.
Phát triển các lĩnh vực văn hoá chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về hình
thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học,
nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác
dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường
văn hoá vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh
lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo
còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hoá quý báu của dân tộc có nguy cơ bị
xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
văn hoá còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc thể chế hoá các quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng về văn hoá. Đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức,
còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực
tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hoá trong
thời kỳ mới. Công tác giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài chưa
mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đúng mức
và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá
tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng,
phản cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là "vô văn hoá", "phản
văn hoá").
Những yếu kém, bất cập
nêu trên chậm được giải quyết mặc dù đã được nhắc đi, nhắc lại trong nhiều văn
kiện, nghị quyết của Đảng. Sự yếu kém, khuyết điểm này đã gây hệ luỵ, tác động tiêu
cực đến phát triển kinh tế - xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn
hoá của chúng ta.
Những hạn chế, khuyết
điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân
chủ quan vẫn là chính. Đặc biệt là trong công tác lãnh đạo, quản lý, chúng ta
chưa nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc và toàn diện về đường lối văn hoá của Đảng,
nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Phương thức lãnh đạo và quản lý văn hoá
chậm được đổi mới, chưa thích ứng kịp thời với sự vận động và phát triển văn
hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối văn hoá của Đảng còn thiếu đồng
bộ, quyết liệt, hiệu quả. Công tác tổ chức và công tác cán bộ trên lĩnh vực văn
hoá còn nhiều bất cập. Trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các tổ chức trong hệ
thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo
phát triển văn hoá chưa cao. Chúng ta cần phân tích sâu sắc các nguyên nhân này
để tìm cách khắc phục, nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc chấn hưng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam trong thời gian tới.
|
Hình ảnh tại Hội
trường Diên Hồng, Hà Nội.
|
Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí,
Với tầm nhìn từ nay cho đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm ngày thành
lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nền văn hoá Việt Nam cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới vừa qua đã tạo
nên thế và lực mới, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế; niềm
tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Đây là một lợi thế cực kỳ to lớn để chúng ta tăng cường lòng tự hào dân
tộc, quyết tâm đổi mới và chấn hưng văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới. Mặt
khác, những thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng văn hoá vừa qua cũng là những rào cản lớn đối với phát triển văn hoá.
Sự tác động của quá trình toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn. Cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hoá số,... vừa
đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát
triển văn hoá. Đồng thời, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức của an
sinh truyền thống, an sinh phi truyền thống, nhất là sự biến đổi khí hậu và
dịch bệnh, trước hết là đối phó, thích ứng và sống cùng đại dịch COVID-19, vừa
bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phát triển kinh tế - xã hội.
Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan
của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là "nền
tảng tinh thần", "động lực phát triển", và "soi
đường cho quốc dân đi"; phát huy giá trị văn hoá và sức mạnh con người
Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức,
thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
Có thể nói, phát triển văn hoá là một trong những vấn đề
trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây
là lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta đề cập một cách
toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hoá, từ chủ đề Đại hội đến các quan
điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Văn
kiện Đại hội đã nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên
suốt là: "Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân
tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hoá và con người Việt Nam,...
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh
thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan
trọng nhất".
Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn
hoá của dân tộc, chúng ta cần tập trung thực hiện thật tốt một số nhiệm
vụ trọng tâm sau đây:
Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường,
tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn
dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống hiến
của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện
thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội
nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia
đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp
nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước,
đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo.
Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia đình Việt Nam với những giá
trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi
đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với
hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền
tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc
ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, hạnh phúc.
Ba là, phát
triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá, đời sống
văn hoá: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị
văn hoá mới. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu
tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hoá, phản văn hoá; bảo vệ
những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hoá của
nhân dân; xây dựng đời sống văn hoá vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục
sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền
của đất nước.
Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn
hoá là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn
hoá, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn
hoá sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá
của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội
ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hoá.
Năm là, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hoá, về đạo
đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ
thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho
lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hoá trong lãnh đạo, quản
lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến
lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hoá của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của
Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá.
Sáu là, xây dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã
hội số và công dân số, làm cho văn hoá thích nghi, điều tiết sự phát triển bền
vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát
triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh.
Để chấn hưng và phát
triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam theo phương hướng nói trên, trong
thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt và có hiệu
quả một số giải pháp sau:
Trước hết là tiếp
tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
trên lĩnh vực văn hoá để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hoá, xây dựng
con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát
triển văn hoá từ trung ương đến cơ sở. Cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp phải
nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng
về Văn hoá và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy
động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hoá. Khắc phục tư tưởng "duy
kinh tế", chỉ tập trung cho kinh tế mà ít quan tâm đến văn hoá. Phải quán
triệt nghiêm túc quan điểm "văn hoá phải được đặt ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội". Đại hội XIII của Đảng vừa qua đã xác
định: Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong thời gian tới là đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững; bảo
đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát
triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là
nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đây
là quan điểm chỉ đạo rất cơ bản cần phải được triển khai thực hiện nghiêm túc,
quyết liệt trong nhiệm vụ của các ngành, các cấp.
Đối với công tác quản
lý nhà nước, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hoá đường lối, quan
điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về
phát triển văn hoá, xây dựng con người. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức
bộ máy quản lý văn hoá từ trung ương đến cơ sở. Xây dựng và ban hành cơ chế,
chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hoá, nghệ thuật.
Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi
thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển
văn hoá. Trong quá trình đa dạng hoá các hoạt động văn hoá, Nhà nước cần chú
trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hoá cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt,
truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong
sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.
Thứ hai là xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công
tác văn hoá tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hoá Việt Nam
trong giai đoạn mới; sớm
khắc phục tình trạng chắp vá, tuỳ tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn
hoá, ở cả trung ương và địa phương. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh: "Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc". Công tác lãnh đạo và quản lý văn hoá
không chỉ đòi hỏi có phẩm chất chính trị mà còn phải có trình độ chuyên môn, am
hiểu đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, có tầm nhìn sâu rộng, có khả năng vận động
và thuyết phục các tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát
triển văn hoá. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội
ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật. Đội ngũ
này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hoá nói riêng và trong sự
nghiệp cách mạng nói chung. Bác Hồ đã từng căn dặn: "Để làm trọn nhiệm vụ
cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao
tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hoà mình
với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp" (Hồ Chí
Minh: Toàn tập, tập 10, trang 647). Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử
dụng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hoá. Tôn vinh
tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hoá nước nhà. Bên cạnh việc
tập trung nâng cao đời sống văn hoá ở cơ sở, cần phải chú trọng xây dựng và
phát triển văn hoá đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn
hoá, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi
mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hoá và
con người Việt Nam hiện nay.
Thứ ba là quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy
các giá trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các
vùng, miền, của đồng bào các dân
tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá của thời đại. Phát triển "sức
mạnh mềm" của văn hoá Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc
gia trong thời gian tới. Hiện nay, cả nước ta có tới 166 bảo tàng, trong đó có
4 bảo tàng quốc gia với hơn 3 triệu hiện vật; 3.486 tổng di tích được xếp hạng
quốc gia, trong đó có 1.626 di tích lịch sử; 105 di tích quốc gia đặc biệt; 288
di sản văn hoá phi vật thể quốc gia (riêng Hà Nội có 21 lễ hội); 27
di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là "di
sản văn hoá thế giới" (riêng tỉnh Bắc Ninh đã có 2 di sản văn hoá
thế giới là Dân ca quan họ và Ca trù)... Đó
là một tài sản vô cùng quý báu do Tổ tiên, Cha ông ta mấy nghìn năm để lại,
không phải nơi nào cũng có được; chúng ta có trách nhiệm phải giữ gìn, trân
trọng và phát huy. Nếu không là chúng ta có tội với lịch sử, là vong ân bội
nghĩa với Tổ tiên, Cha ông chúng ta. Bác Hồ trước lúc đi xa vẫn còn dặn lại
rằng: "Muốn yêu Tổ quốc mình thì phải yêu những khúc hát Dân ca!"
(Nhạc sĩ Trần Hoàn với bài hát rất xúc động "Lời Bác dặn trước lúc đi
xa"; "Giữa Mạc Tư Khoa tôi nghe câu hò ví dặm").
Thứ tư là chú trọng xây dựng văn hoá ứng xử lành mạnh trong xã
hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã
hội; nêu cao tinh thần
tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã
hội ("Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau
cùng"; "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung
một giàn"; "Thương người như thể thương thân"; "Lá lành đùm
lá rách"; "Lá rách ít đùm lá rách nhiều"; "Một con ngựa
đau, cả tàu không ăn cỏ"; "Kính lão đắc thọ"; "Kính già,
già để tuổi cho"; "Anh em như thể chân tay"; "Kính trên
nhường dưới"; "Vợ ta đói rách ta thương, vợ người áo gấm xông hương
mặc người"; "Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn; Thuận bè
thuận bạn tát cạn biển Đông"; "Đói cho sạch, rách cho thơm";
"Thật thà là cha quỷ quái"; "Tôn sư trọng đạo"; "Lời
chào cao hơn mâm cỗ"; "Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng"; giữ
lấy "nếp nhà", giữ lấy "Chân quê" (bài thơ
của Nguyễn Bính năm 1936); giữ lấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt (bài thơ "Việt
Bắc" của nhà thơ Tố Hữu năm 1954)... Xây dựng các quy tắc ứng xử
văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không
gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ v.v…
Kiên quyết, kiên trì
đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, "quét sạch chủ nghĩa cá nhân", nguồn
gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hoá, các
cơ quan làm công tác văn hoá. Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán
bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khoá
XI, XII và đặc biệt là các Kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khoá
XIII của Đảng mới đây về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Thưa các vị đại biểu và các đồng chí,
Hội nghị văn hoá toàn
quốc của chúng ta hôm nay là một dịp quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta, nhất là những người làm công tác văn hoá, đội ngũ trí thức, văn nghệ
sĩ của cả nước, quán triệt sâu sắc, toàn diện và đồng bộ hơn nữa tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng ta, đặc biệt là quan điểm
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về việc xây dựng, giữ gìn
và phát huy những giá trị đặc sắc của nền Văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Chúng ta cùng nhau nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn và toàn
diện hơn về vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của văn hoá trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong việc thực hiện khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, xứng tầm với sự nghiệp đổi mới và truyền thống lịch
sử vẻ vang ngàn năm văn hiến của Dân tộc.
Tôi tha thiết mong
rằng, sau Hội nghị này, công tác văn hoá của chúng ta sẽ có bước chuyển biến,
tiến bộ mới, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, ghi một dấu mốc mới trên
con đường chấn hưng, phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới. Tôi tin
rằng, với một Đất nước, một Dân tộc trọng văn hiến, trọng hiền tài, giàu truyền
thống yêu nước và cách mạng; Nhân dân đoàn kết, cần cù, sáng tạo; đội ngũ trí
thức, văn nghệ sĩ tâm huyết, tài năng, có trách nhiệm cao với Nhân dân, với
Đảng, với Tổ quốc và tương lai của Dân tộc; cùng với sự vào cuộc quyết liệt,
đồng bộ của cả hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó
khăn, vượt qua mọi thách thức để chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang thêm cho
Dân tộc, cho Giống nòi, tạo thành sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày
càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, Đất nước ta ngày càng phồn
vinh, xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng của một Dân tộc
anh hùng, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Và chỉ có như vậy
thì chúng ta mới có thể nói rằng Hội nghị của chúng ta hôm nay có ý nghĩa thiết
thực và thành công tốt đẹp về thực chất.
Xin chúc các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các quý vị đại biểu, các đồng chí và toàn thể đồng
bào ta sức khoẻ, hạnh phúc và thắng lợi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!”
Nguồn:dangcongsan.vn