Với tài năng, nhân cách và sự cống hiến to lớn qua suốt hơn
80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Võ Chí Công xứng đáng là người chiến sỹ
cách mạng kiên cường, một nhà lãnh đạo tài năng của Đảng và Nhà nước, một trong
những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đồng chí Võ Chí Công - một trong những người
học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bản lĩnh của người cộng sản Võ Chí Công không
chỉ được tôi luyện trong cuộc đấu tranh trực diện với kẻ thù, mà còn thể hiện
rõ nét trong sự nghiệp đổi mới, khi dám vượt lên những định kiến, thói quen, sự
lạc hậu, trì trệ; dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân để đổi mới, sáng
tạo, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới – thời kỳ Đổi mới. Trong
đó, dấu ấn rõ nét nhất của sự tiên phong, đột phá sáng tạo của đồng chí là
trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và công tác lập pháp, lập hiến khi trực tiếp
phụ trách những lĩnh vực hết sức quan trọng này .
ĐỒNG CHÍ VÕ CHÍ CÔNG VỚI CHÍNH SÁCH
KHOÁN TRONG NÔNG NGHIỆP
Đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ hòa bình
xây dựng đất nước trong điều kiện vô cùng khó khăn. Chiến tranh kéo dài để lại
hậu quả nặng nề trên tất cả các mặt. Thêm vào đó là việc kéo dài cơ chế tập
trung bao cấp trong điều kiện mới đã làm cho khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn
ra sâu sắc trên phạm vi cả nước.
Sau ngày đất nước thống nhất, đồng chí Võ Chí
Công được Đảng và Nhà nước phân công giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Trưởng ban Cải
tạo nông nghiệp miền Nam. Đồng chí luôn trăn trở với tình hình sản xuất
đang trì trệ và đau đáu tìm câu trả lời cho hiện trạng nền sản xuất nông nghiệp
vốn có nhiều lợi thế của đất nước. Với tinh thần thật sự cầu thị và sâu sát
thực tiễn, đồng chí quyết định đi đến các hợp tác xã “khoán chui” ở Hải Phòng,
Vĩnh Phú…, ra đồng ruộng lắng nghe ý kiến, xem cách làm của xã viên. Từ khảo
sát thực tế ở các địa phương, đồng chí nhận thấy cơ chế quản lý của mô hình
kinh tế tập thể “hợp tác xã” đã trở thành lực cản của kinh tế nông nghiệp. Do
đó, tiến hành cải cách trong nông nghiệp, trước hết là cải cách cơ chế
quản lý cũ đã trở thành yêu cầu cấp bách, tất yếu. Trong đó, vấn đề đầu tiên
được đồng chí nêu ra là khoán ruộng đất cho xã viên bởi “khoán sẽ giải quyết
được lợi ích cho người lao động, tạo ra động lực cho sản xuất; động cơ lợi ích
của người lao động đạt được thì sẽ xóa được tiêu cực”(1). Tuy nhiên
từ nhận thức đến việc thực hiện trong thực tế là cả một quá trình, cuộc đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới bao giờ cũng quyết liệt. “Khoán chui” lúc này bị
lên án gay gắt, cho là chống chủ nghĩa xã hội ở nông thôn, là chống Đảng. Một
số cơ quan tham mưu, quản lý ở Trung ương coi những nơi đang khoán sản phẩm là
bất hợp pháp. Một số địa phương kỷ luật nghiêm khắc bất kỳ đảng viên, cán bộ
nào ủng hộ khoán sản phẩm. Mặt khác, khoán chui trên thực tế dù đem lại hiệu
quả rõ rệt, nhưng là việc làm tự phát của nông dân, do vậy cần có sự chỉ đạo,
theo dõi chặt chẽ, đánh giá khách quan, tổng kết thực tiễn để đề xuất Trung
ương có chủ trương đúng. Từ suy nghĩ đó, bên cạnh việc tiến hành tổ chức tổng
kết rút kinh nghiệm về “khoán chui” ở nhiều địa phương đồng bằng sông Hồng như
Hải Phòng, Hà Nam Ninh…., đồng chí Võ Chí Công chỉ đạo việc làm thí điểm khoán
đến người lao động ở hợp tác xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú; sau
đó, chỉ đạo Bộ Nông nghiệp cử cán bộ xuống thống nhất với tỉnh, huyện cách làm
cụ thể để triển khai.
|
Đồng chí Võ Chí Công tên
thật là Võ Toàn, sinh ngày 07/8/1912 trong một gia đình giàu truyền thống yêu
nước và đấu tranh cách mạng tại làng Khương Mỹ, tổng Phú Quý, phủ Tam Kỳ, nay
thuộc xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
|
Là
người trực tiếp chỉ đạo ngành nông nghiệp, đồng chí Võ Chí Công không chỉ tỏ rõ
thái độ đồng tình, ủng hộ cách làm mới mà đã đứng ra nhận trách nhiệm về mình:
Trên lĩnh vực này tôi phụ trách, nếu khoán mới không đem lại hiệu quả, tôi xin
chịu trách nhiệm hoàn toàn với Đảng và nhân dân. Đồng chí khẳng định: “Chủ
nghĩa xã hội không thể chấp nhận khoán việc vì đã là Chủ nghĩa xã hội cách làm
ăn phải do dân tự nguyện lựa chọn, phải mang lại no ấm, hạnh phúc cho dân. Chỉ
có khoán sản phẩm, khoán chui mới phù hợp với Chủ nghĩa xã hội vì bất cứ đâu
khoán chui thu nhập của xã viên cũng hơn hẳn khoán việc, vậy tại sao lại gắn
khoán việc, mà nông dân coi như cái cùm trên vai với Chủ nghĩa xã hội, với Chủ
nghĩa Mác - Lênin”(2). Trong nhiều cuộc họp, hội nghị của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Chính phủ… khi có nhiều ý kiến trái chiều về khoán sản phẩm,
đồng chí đã kiên trì giải thích, thuyết phục bằng những con số cụ thể, bằng
thực tế của sự thay đổi rõ rệt ở những hợp tác xã khoán sản phẩm, với nguyện
vọng tha thiết và nhu cầu tất yếu của người nông dân muốn được “cởi trói”, được
“xé rào” để được quyền tự chủ trong sản xuất; qua đó chứng minh việc khoán sản
phẩm đến người lao động là phù hợp với quy luật kinh tế khách quan trong bước
đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng chí đề nghị Đảng cần
chủ động công nhận khoán sản phẩm để mở đường cho sản xuất phát triển và đáp
ứng nhu cầu chính đáng của nông dân.
Từ kết quả làm thí điểm và căn cứ vào tình hình
thực tế, khi kể cả ở những địa phương bị ngăn cản quyết liệt, khoán sản phẩm
vẫn chiếm hơn nửa số hợp tác xã, đồng chí Võ Chí Công đề nghị Ban Bí thư ra
Thông báo số 22 (ngày 22/10/1980) để ổn định sản xuất, xác định tính pháp lý
của khoán mới, đảm bảo quyền lựa chọn cách khoán việc hay khoán sản phẩm của xã
viên. Trong các Hội nghị, trước ý kiến cho rằng việc khoán sản phẩm sẽ đưa nông
thôn theo con đường tư bản chủ nghĩa, đồng chí Võ Chí Công đã phân tích tình
trạng trì trệ, bế tắc, tiêu cực trong các hợp tác xã và chỉ ra nguyên nhân của
tình trạng đó là do cơ chế khoán việc đã không còn phù hợp với thực tiễn sản
xuất. Khoán sản phẩm từ trong quần chúng nông dân mà ra, trở thành phong trào
quần chúng, muốn ngăn cấm cũng không được. Bài học về gần dân, lắng nghe dân,
nắm bắt nguyện vọng chính đáng của nhân dân được đồng chí nêu ra để minh chứng
đầy thuyết phục cho việc phải thay đổi cơ chế quản lý lạc hậu, xa rời thực tiễn
cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân.
Từ kết quả trong thực tiễn, ngày 13-1-1981, Ban
Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100/CT-TW về cải tiến công tác khoán, “mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động” trong hợp tác xã nông
nghiệp, do đồng chí Võ Chí Công là người trực tiếp xây dựng dự thảo.
Cốt lõi của Chỉ thị 100 là “bước đầu tạo ra cơ chế quản lý mới để hộ xã viên
phát huy quyền làm chủ sản xuất kinh doanh, tạo động lực bằng lợi ích kinh tế,
kích thích họ bỏ vốn, sức lao động, đẩy mạnh phát triển sản xuất, đây cũng là
khâu đột phá để chuyển cơ chế quản lý hợp tác xã từ mô hình cũ từng bước sang
mô hình mới”(3). Tuy đây mới chỉ giải pháp tình thế, chưa phải là
hình thức mới về tổ chức quản lý nông nghiệp, mà chỉ là cải tiến hình thức
khoán, từ khoán việc sang khoán sản phẩm, nhưng đã tạo ra bước phát triển mạnh
mẽ trong sản xuất nông nghiệp, khuyến khích các hộ đẩy mạnh sản xuất để thu phần
vượt khoán, dấy nên khí thế lao động sôi nổi ở nông thôn. Chỉ thị 100 vừa ra
đời đã có hiệu quả rõ rệt trong thực tế, nhưng vẫn gặp không ít ý kiến phản đối
gay gắt, xem “khoán kiểu này là phá hợp tác xã, xóa bỏ thành quả 20 năm xây
dựng hợp tác xã…thậm chí là phá hoại cơ sở xã hội chủ nghĩa ở nông thôn và đi
đến xét lại”(4). Mặc dù vấp phải nhiều ý kiến phản đối, nhưng đồng
chí vẫn kiên trì quan điểm và tích cực bám sát thực tiễn để tìm những hình
thức, biện pháp phù hợp. Từ năm 1982, trên cương vị Thường trực Ban bí thư,
đồng chí Võ Chí Công chỉ đạo Ban Nông nghiệp Trung ương soạn thảo nhiều chỉ thị
để cụ thể hóa và dần hoàn thiện các hình thức, mô hình cơ chế khoán sản phẩm.
Đó là Chỉ thị 19 về điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp miền Nam;
Chỉ thị 25 về việc khuyến khích và hướng dẫn phát triển kinh tế gia đình; Chỉ
thị 50 về việc kiện toàn và nâng cao chất lượng các đơn vị quốc doanh sản xuất…
Sau Đại hội VI, đồng chí Võ Chí Công đã đảm
nhận trọng trách là Trưởng ban Tiểu ban nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế và có đóng góp quan trọng cho sự ra đời Nghị quyết số 10-NQ/TW về Đổi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp vào năm 1988. Nội dung chính của Nghị
quyết 10 là thực hiện khoán ruộng đất ổn định cho hộ nông dân tới 15 năm, nhiều
loại tư liệu sản xuất quan trọng được giao cho xã viên, xã viên được chủ động
thực hiện các khâu canh tác, hợp tác xã chuyển sang làm dịch vụ theo yêu cầu
của xã viên, xã viên được tự do sử dụng và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường
ngoài chi phí cho hợp tác xã và thuế cho Nhà nước. Như vậy, đến khoán 10, quyền
tự chủ của nông dân trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối được mở rộng hơn.
Hình thức khoán hộ vốn không được nhắc đến trong Chỉ thị 100, đến Nghị quyết 10
đã được công khai thừa nhận và khuyến khích. Tình trạng bất hợp lý trong mối
quan hệ lợi ích giữa lao động và phân phối khi hộ xã viên là người trực tiếp
làm ra của cải nhưng không có quyền gì, còn ban quản trị hợp tác xã thì lại
thao túng tất cả về cơ bản được xóa bỏ. Lợi ích của người lao động được bảo
đảm, bởi vậy tạo nên động lực mạnh mẽ cho nông dân sản xuất và thúc đẩy nông
nghiệp phát triển. Cùng với thực hiện khoán 10 là sự đổi mới toàn bộ cơ chế
quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn
theo hướng từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, từ chỗ thiếu lương thực triền miên,
sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước và trở thành một
trong những nước xuất khẩu nhiều lúa gạo trên thế giới.
ĐỒNG CHÍ VÕ CHÍ CÔNG VỚI CÔNG TÁC LẬP
HIẾN, LẬP PHÁP
Khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới toàn
diện, đến tháng 4 năm 1987, đồng chí Võ Chí Công
được tin tưởng giao trọng trách là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội
đồng Quốc phòng. Trên cương vị mới, đồng chí đã chỉ đạo sát sao, tích
cực và có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế –xã hội, quốc phòng – an ninh,
đối ngoại, đặc biệt là trên lĩnh vực lập hiến và lập pháp.
Hiến pháp năm 1980 được ban hành trong bối cảnh
đất nước hòa bình, thống nhất, là bản Hiến pháp
của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, do tư
duy, cơ chế cũ và việc áp dụng máy móc mô hình Hiến pháp Liên Xô nên bản Hiến
pháp này đã bộc lộ nhiều hạn chế như chủ quan, duy ý chí về con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu, vừa ra khỏi chiến
tranh như Việt Nam. Qua mười năm hoạt động, mô hình tổ chức bộ máy nhà nước
theo hướng tập quyền cao độ đã làm cho bộ máy nhà nước cồng kềnh và trì trệ.
Không có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng dẫn đến các cơ quan khó có thể hoạt
động một cách độc lập, tự chủ, có hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt trước sự khủng
hoảng, sau đó là sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, thì
việc đổi mới tư duy và sửa đổi Hiến pháp năm 1980 là một đòi hỏi tất yếu. Nhận
thức rõ yêu cầu này, Quốc hội khoá VIII đã ra Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa
đổi Hiến pháp năm 1980 do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch.
Đảm trách nhiệm vụ trọng đại, với tinh thần trách nhiệm cao trước Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và Quốc hội, đồng chí Võ Chí Công đã huy động lực lượng chuyên
gia, các nhà khoa học để thành lập các tiểu ban nghiên cứu từng chuyên đề, tổ
chức nhiều cuộc hội thảo, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng các bản Hiến pháp trước
đó và kinh nghiệm xây dựng Hiến pháp ở các nước tiên tiến. Bên cạnh đó, đồng
chí chỉ đạo phân công cán bộ đi đến cơ sở, lắng nghe cặn kẽ, thấu đáo ý kiến
của các ban ngành, các địa phương, các tầng lớp nhân dân. Với tầm tư duy chiến
lược và đúc rút từ khảo sát thực tiễn, đồng chí nêu ý kiến chỉ đạo về việc sửa
đổi Hiến pháp. Đó là tiếp tục khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng phải
sự điều chỉnh cho sát hợp với chặng đường đầu của thời kỳ quá độ dưới ánh sáng
của đường lối đổi mới; giữ vững bản chất giai cấp của Nhà nước, giữ vững nguyên
tắc tập quyền nhưng phải tiếp thu hợp lý yếu tố sự phân công, kiểm soát quyền
lực nhà nước; nhất quán quan điểm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tiếp
tục đổi mới việc thể chế hóa các quyền tự do, dân chủ của công dân theo hướng
quyền con người được khẳng định không tách rời địa vị công dân, quyền công dân
không tách rời nghĩa vụ công dân; thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà
nước và toàn xã hội nhưng phải phân định rõ ràng chức năng của tổ chức đảng và
chức năng của cơ quan nhà nước.
Trong bối cảnh tình hình quốc
tế và trong nước đang có những biến động phức tạp, nhất là sau sự kiện Liên Xô
sụp đổ, trên cương
vị Chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, đồng chí Võ Chí Công đã kiên trì giữ vững
những nguyên tắc cơ bản về dân chủ, dân quyền, pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
kiên quyết sửa đổi những điều khoản không còn phù hợp với công cuộc đổi mới.
Mặc dù vẫn đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng nội dung Hiến pháp
năm 1992 đã thừa nhận sự “phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp” (điều 2). Tiếp thu
quan điểm “thần linh pháp quyền” của Hồ Chí Minh, lần đầu tiên trong Hiến pháp
chính thức ghi nhận khái niệm nhà nước pháp quyền, đặt quyền lực nhà nước dưới
sự ràng buộc của quyền lực pháp luật theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Cơ
chế kiểm soát quyền lực của Quốc hội thông qua bỏ phiếu tín nhiệm được ghi nhận
từ Hiến pháp 1946 được quy định trong điều 84 của Hiến pháp mới. Theo đó, Quốc hội
có quyền bỏ phiếu tín nhiệm và dẫn đến việc bãi nhiệm đối với những người giữ
chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Hiến pháp 1992 sử dụng khái niệm quyền con
người với nội dung chính trị pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của một cá
nhân trong mối quan hệ với Nhà nước. Trong bản Hiến pháp này, các quyền chính
trị, quyền về kinh tế... được mở rộng hơn; được tôn trọng và bảo vệ bằng pháp
luật, cũng như quy định trách nhiệm của nhà nước trong việc ghi nhận và đảm bảo
trên thực tế các quyền công dân, quyền con người. Điều 53 Hiến pháp 1992 đã
"phục hồi" lại quyền biểu quyết của công dân khi nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân. Trong lĩnh vực kinh tế đáng chú ý là quyền tự do kinh doanh,
quyền sở hữu tư nhân….
Bản Hiến pháp năm 1992 thể hiện rõ nét sự đổi
mới trong tư duy đối ngoại của Đảng và Nhà nước, khi sửa đổi Lời nói đầu và ghi nhận: "Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao
lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị, xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng
có lợi” (Điều 14)
Với những nội dung quan trọng trên, Hiến pháp
năm 1992 là cột mốc quan trọng của lịch
sử lập hiến Việt Nam, là nền tảng để hoàn thiện các hệ thống pháp quyền, là cơ
sở vững chắc để thực thi các chức năng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho việc mở
rộng và phát triển chính sách kinh tế, ngoại giao của Việt Nam trong xu thế
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 -
Hiến pháp của thời kỳ Đổi mới, như đồng chí Võ Chí Công đã khẳng định là kết
quả của quá trình đấu tranh xây dựng, và chống những quan điểm và tư tưởng sai
trái trong toàn Đảng, toàn dân, giữa đổi mới và bảo thủ, giữa mở rộng dân chủ
và tập trung quan liêu, giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi công dân, v.v..
; kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm đòi đưa vào Hiến pháp mới
những nội dung của thể chế nhà nước pháp quyền kiểu tư bản chủ nghĩa, thực hiện
chế độ tam quyền phân lập hoặc không muốn đưa vào Hiến pháp vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản… Đây là thành tựu to
lớn của toàn dân, toàn Đảng trong đó nổi bật vai trò của Chủ tịch
Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, đồng chí Võ Chí Công
Trong nhiệm kỳ này, dưới sự lãnh đạo của đồng
chí Võ Chí Công, Quốc hội đã thông qua 31 luật, bộ luật: Bộ luật tố tụng hình
sự, Bộ luật hàng hải, Luật tổ chức Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội,
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân, Luật đất đai, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, v.v. và
60 Nghị quyết. Hội đồng Nhà nước đã xem xét, thông qua 43 pháp lệnh như: Pháp
lệnh về lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam, Pháp lệnh về lực lượng An ninh
nhân dân Việt Nam, Pháp lệnh về kế toán và thống kê, Pháp lệnh về lao động công
ích, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của
công dân, v.v..
Bên cạnh đó, Quốc hội tăng cường công tác giám
sát, đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, cải tiến lề lối làm
việc, thực hiện dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội nhằm nâng cao vai trò,
trách nhiệm của các đại biểu nhân dân. Hoạt động của Quốc hội đã đi vào thực chất,
thực hiện đầy đủ, có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất, từng bước xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân.
Không phải ngẫu nhiên khi cả nước bắt đầu triển
khai công cuộc đổi mới chưa có tiền lệ, đầy gian nan, thử thách, đồng chí Võ
Chí Công lại được tín nhiệm trao trọng trách Chủ tịch Hội đồng Nhà nước để tổ
chức triển khai đổi mới các hoạt động của Hội đồng nhà nước và sau đó trong vai
trò Trưởng ban Ủy ban sửa đổi Hiến pháp nhằm thể chế hóa đường lối đổi mới của
Đảng bằng Hiến pháp, pháp luật. Với trí tuệ, bản lĩnh của người cộng sản tiên
phong dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí Võ Chí Công đã rất thành công
trên vị trí và lĩnh vực công tác của mình, góp phần quan trọng đưa đất nước
từng bước thoát khỏi khủng khoảng, vượt qua biến động chính trị lớn thế giới
những năm đầu thập kỷ 90, tạo nền tảng vững chắc và mở đường cho tiến trình
phát triển, hội nhập quốc tế của nước ta.
Nguồn:tuyengiao.vn