Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động lập pháp, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
GS, TS. VƯƠNG ĐÌNH HUỆ
Ủy
viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhân dịp
5 năm sơ kết thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-6-2016, của Bộ Chính trị về
“Đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuẩn
bị Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, GS, TS. Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính
trị, Chủ tịch Quốc hội có bài viết: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt
động lập pháp, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết:
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, trong đó có tư tưởng về hoạt động lập pháp, liên tục được Người bổ sung
và phát triển làm nền tảng, làm cơ sở lý luận và là kim chỉ nam cho hoạt động
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta từ khi giành độc lập tới ngày
hôm nay. Tư tưởng của Người về hoạt động lập pháp được thể hiện qua những luận
điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự bất khả xâm phạm của chủ
quyền quốc gia, tính thiêng liêng của độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh khẳng định bảo vệ sự toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia là tất yếu, là tuyệt đối và có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá
trình cách mạng, quyết định đến các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp,
đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế - xã hội đến chính trị, từ văn
hóa đến khoa học, từ ngoại giao đến quân sự, quốc phòng, an ninh… của quốc gia,
dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nhiệm vụ bắt
buộc, là hành động “tất phải thế”.
Cùng với sự toàn vẹn của chủ quyền quốc gia, độc
lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ
Chí Minh, Người khẳng định: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đó
là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu(1). Theo Hồ Chí Minh, độc lập, tự do dân
tộc phải thực sự, hoàn toàn và được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội; các quyền dân tộc, quyền con người phải được thực hiện trên thực
tế. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân bởi “Nước độc lập
mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì"(2).
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh, tư
tưởng của Người về chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc đã, đang và ngày càng
phát huy giá trị. Đây là cơ sở ý thức hệ quan trọng cho mọi hoạt động của cơ
quan nhà nước, cho ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân, là căn cứ, mục
tiêu và động lực của hoạt động lập pháp ngày nay và mai sau.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền nhân dân, tất cả
quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân.
“Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam”(3) - đó là tư
tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chữ “DÂN”
được đặt vào vị trí tối thượng. Người luôn căn dặn: “Trong bầu trời không gì
quí bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân”(4). Mọi việc lớn nhỏ đều
nhằm làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân. Đem tài dân, sức dân để làm
lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân, bởi dân là chủ thể, dân là
thước đo chân lý. Đối với Người, chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho
nhân dân. Đối với Người, cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức
là không phải chân lý. Đối với Người, ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
chính là phục tùng chân lý.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về đề cao tính tối thượng của pháp
luật.
Năm 1922, Yêu sách về quyền của người dân và chế
độ pháp lý của Nhà nước với Hiến pháp ở vị trí tối thượng được Người khái quát,
nâng lên thành tâm niệm linh thiêng, khắc khoải lòng người trong “Việt Nam yêu
cầu ca”:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(5).
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy được mối quan hệ
hữu cơ, máu thịt giữa quyền làm chủ xã hội, quyền dân chủ, tự do của nhân dân
với Hiến pháp và các đạo luật. Người thấy rõ vai trò của Hiến pháp, của các đạo
luật trong việc làm thay đổi tính chất, bản chất của một chế độ chính trị. Với
Hồ Chí Minh, thần linh pháp quyền không mơ hồ, không xa xôi. Người đã nhận thức
rằng, để xây dựng được Nhà nước pháp quyền, nơi mà mỗi người đều phải phục tùng
và tôn trọng luật pháp, thì pháp luật phải có vị trí tối thượng như thần linh.
Tư tưởng này của Người chính là bản Cương lĩnh lập hiến dẫn dắt con đường đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc, thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân, tôn
trọng, bảo đảm và bảo vệ tự do và quyền làm chủ của nhân dân; là sợi chỉ đỏ cho
hoạt động lập pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta.
Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu mục đích của pháp luật
là phải nhân đạo, nhân văn, vì con người.
Hồ Chí Minh luôn mong muốn xây dựng hệ
thống pháp luật nhân đạo, nhân văn, do con người và vì con người. Pháp luật
phải có tính hài hòa, giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người
với công việc trên nền tảng có lý, có tình.
Hệ thống pháp luật mà Người mong muốn
xây dựng là sản phẩm của chế độ có một “mục đích duy nhất là
mưu tự do hạnh phúc cho mọi người… đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy”(6). Ngay trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Người yêu cầu: “Chúng ta phải có một
Hiến pháp dân chủ”(7). Chính Người
đã chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 với những nội
dung thể hiện đậm nét tính dân chủ, vì con người. Trong bài phát biểu
chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Người chỉ rõ: “Pháp
luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động…
Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền
tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”(8).
Như vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, pháp luật sinh ra không vì một cái gì
khác hơn là vì dân. Đây là nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật của nước ta từ khi giành độc lập cho đến hôm nay và mai sau.
Thứ năm, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng pháp luật quốc tế.
Tôn trọng pháp luật quốc tế là tầm nhìn rất xa
và rộng của Hồ Chí Minh. Người nói “Đối với tất cả các nước trên thế giới, nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết tha mong muốn duy trì tình hữu nghị và thành
thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng hòa bình thế giới
lâu dài”(9). Quan điểm của Người là
nền tảng tư tưởng cho đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, là
cơ sở để các nước có chế độ chính trị khác nhau trên thế giới công nhận và đặt
quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây cũng chính là kim chỉ nam, là nguyên tắc
cơ bản cho công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đối ngoại và hội
nhập của Việt Nam.
Thứ sáu, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm dân chủ trong quá
trình xây dựng pháp luật.
Trong xây dựng hệ thống pháp luật, Hồ Chí Minh
rất chú trọng tính dân chủ. Theo Người, muốn có được hệ thống pháp
luật như vậy, sự tham gia của nhân dân trong quá trình xây dựng pháp
luật là điều kiện tiên quyết. Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1959,
việc bảo đảm sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào xây dựng pháp
luật được Người đặc biệt quan tâm. Để bảo đảm pháp luật thực sự của nhân dân,
Người yêu cầu: “Bản Hiến pháp chúng ta sẽ thảo ra… phải tiêu biểu được các
nguyện vọng của nhân dân… Sau khi thảo xong, chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến
của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như thế bản Hiến pháp của chúng
ta mới thật sự là một bản Hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân chủ”(10).
Hồ Chí Minh nhận định: “Phải nhận thức cho tốt
và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật”; “sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp
luật” và “dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật”(11).
Như vậy, trong tư tưởng của Người, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
phải hướng tới mục tiêu dân chủ, tiến bộ.
Từ những luận điểm nêu trên, có thể khẳng định
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật nói chung, về hoạt động lập
pháp nói riêng là tài sản tinh thần quý báu phải được gìn giữ, bảo
vệ và phát huy trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập, trong quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhằm phát triển nhanh và bền vững để xây
dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần củng cố, tạo nền
tảng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
II. Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập
pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Học tập, vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong giai đoạn hiện nay có vai trò rất quan
trọng trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân đang tích cực, chủ động thực hiện
thắng lợi các định hướng, nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược đã xác định
tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước(12); hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền
làm chủ của nhân dân(13); đột phá
chiến lược về thể chế để phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ của nhân dân, đồng thời, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong sạch, vững mạnh(14).
Bên cạnh đó, để hội nhập hiệu quả, Việt Nam phải
có các giải pháp về lập pháp để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm
vừa phù hợp và phát huy lợi thế, thế mạnh trong nước, vừa hài hòa, tương thích
với các tiêu chuẩn chung của pháp luật quốc tế, vừa thể hiện là một đối tác tin
cậy, uy tín, có vai trò trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng đang hòa nhịp
trong dòng chảy của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với khát vọng phát
triển đất nước hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc. Hội nhập quốc tế trong bối
cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ có tác động nhiều mặt đến việc học
tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lập pháp trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhiều vấn đề mới, chưa từng có tiền lệ sẽ nảy
sinh đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật để nhân dân và Tổ quốc Việt
Nam được hưởng thụ những lợi ích tốt nhất mà hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng
này đem lại.
1.
Yêu cầu về hoạt động lập pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
Kế thừa nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đã được đề cập trong văn kiện các kỳ Đại hội trước, nội dung xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm trong
nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII, được nhắc đến nhiều lần và là một trong ba đột
phá chiến lược của Đại hội với những điểm mới hơn, sâu sắc hơn trong nhận thức;
quyết liệt hơn, mạnh mẽ hơn trong chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ XIII nêu
rõ, mục tiêu này chỉ đạt được khi chúng ta biết gắn tăng cường công khai, minh
bạch với trách nhiệm giải trình; kiểm soát hiệu quả và thực chất quyền lực gắn
với siết chặt kỷ cương, kỷ luật; xây dựng nhà nước pháp quyền gắn với mục tiêu
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tôn trọng, tuân theo các quy luật thị trường
gắn với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng lợi ích của nhân dân,
của dân tộc gắn với bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, thị trường và xã hội…
Để thực hiện thành công các mục tiêu nêu trên
nhằm xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hoạt
động lập pháp trong thời gian tới phải đáp ứng 6 yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải bảo đảm tạo hành lang pháp lý để Nhà nước được tổ
chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động lập pháp
phải tạo được những bước đột phá thực sự về thể chế để giải quyết những vấn đề
thực tiễn đang đặt ra, rất thiết thực và cụ thể, bảo đảm sự bao phủ của pháp
luật đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội - đưa thực tiễn, “hơi thở”
và nhu cầu của cuộc sống vào pháp luật trước khi triển khai thi hành pháp luật
trong thực tiễn. Hệ thống pháp luật phải bảo đảm ngày càng tốt hơn dân chủ,
công bằng mới có thể làm cơ sở để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Thứ hai, phải bảo đảm việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công
dân, giữa Nhà nước và xã hội; bảo đảm quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt
động của Nhà nước và xã hội. Lấy việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của Nhà nước, là tiêu chí đánh
giá tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước, trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Mọi
hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các
quy định của pháp luật. Mối quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước được xác định
chặt chẽ về phương diện luật pháp, mang tính bình đẳng và được xác định theo nguyên
tắc: Cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, người dân được
làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm.
Thứ ba, phải bảo đảm quyền lực nhà nước được tổ chức và thực
hiện theo các nguyên tắc: Phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực
hiệu quả trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với
các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể cả từ bên trong bộ máy nhà nước và bên
ngoài bộ máy nhà nước; tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân và xã hội đối
với việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Thứ tư, phải bảo đảm một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
phù hợp. Nền tảng của Nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống
pháp luật dân chủ, công bằng. Do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
luôn là yêu cầu, điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo Hiến pháp, pháp luật luôn
được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương thức
bảo vệ Hiến pháp, pháp luật phải phù hợp với thể chế nước ta và hướng tới mục
tiêu bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi
trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc vào chủ thể của
các hành vi này. Cùng với bảo vệ Hiến pháp, phải tiếp tục hoàn thiện và thực
thi một chế độ tư pháp thật sự minh bạch, trong sạch để duy trì, bảo vệ pháp
chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Thứ năm, phải bảo đảm thích ứng với những tác động của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, hoạt động lập pháp phải tạo cơ sở pháp lý
để tận dụng tối đa những thành tựu, những tác động tích cực của Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư nhằm đem lại lợi ích cho người dân, doanh nghiệp và xã hội;
hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng này, bảo vệ người
dân, doanh nghiệp và Nhà nước trước những hệ lụy có thể xảy ra. Hoạt động lập
pháp cũng phải bảo đảm được vai trò của Nhà nước trong xây dựng, hoàn thiện
pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo với những tư duy mới, phù hợp với xu thế
tiến bộ của thế giới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ sáu, phải bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nội dung hết sức quan trọng, thể hiện rõ nét
nhất đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là phải gắn liền và dựa trên cơ sở
đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
2.
Học tập, vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về hoạt động lập
pháp trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV diễn ra cùng thời
điểm với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của
Đảng và tiếp tục cụ thể hóa, đưa Hiến pháp năm 2013 vào đời sống, qua đó, khẳng
định vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội khóa XIV đã thông qua 73 luật, 2
pháp lệnh và 31 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật nói chung, về hoạt động lập pháp nói riêng là nền
tảng, yêu cầu bắt buộc để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, góp phần thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta phát triển
nhanh, bền vững. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong bối
cảnh ngày nay nhằm xây dựng hệ thống pháp luật không chỉ đáp ứng đòi hỏi của
thực tiễn mà còn phải có tầm nhìn, có chiến lược để dẫn dắt, định hướng thực
tiễn. Trong thời gian tới, Quốc hội sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện học tập
tư tưởng Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW và Kết luận số 01-KL/TW(15) trong hoạt động lập pháp. Kết
quả này sẽ góp phần chứng minh tính đúng đắn và hiện thực hóa các tư tưởng,
quan điểm chỉ đạo về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bài viết quan trọng ngày
17-5-2021 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng(16).
Theo đó, cùng với việc tham gia nghiên cứu, xây
dựng và triển khai thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045(17), hoạt động lập pháp của Quốc hội
trong Nhiệm kỳ khóa XV cần tập trung vào một số lĩnh vực quan trọng sau:
Thứ
nhất, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chủ
quyền, biên giới quốc gia:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để kiên
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
đất nước. Tiếp tục luật hóa để làm cơ sở pháp lý thực hiện thành công các chiến
lược như: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược
quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc
gia và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng... Tiếp tục khẳng định
vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất
nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ
máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân: Tập trung xây dựng cơ sở
pháp lý để xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước. Thực
hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước,
thị trường và xã hội. Nhà nước tập trung vào quản lý vĩ mô, nâng cao chất lượng
xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Hoàn thiện hệ thống pháp
luật để đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ
nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh,
bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu
quả. Thể chế hóa bằng luật để xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa
học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn,
chịu khó học hỏi, nói đi đôi với làm.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc
hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động,
tăng tính dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước và giám sát tối cao. Hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá
đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân
với kiểm tra, giám sát của Đảng, với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Thứ ba, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con
người, quyền công dân: hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện đúng đắn, hiệu quả
dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng cơ
chế pháp lý để hiện thực hóa nội dung mới được bổ sung tại Đại hội lần thứ XIII
của Đảng là “dân giám sát, dân thụ hưởng” và thực hiện hiệu quả phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát của nhân dân. Tạo cơ sở pháp lý
để làm cho người dân trao quyền mà không mất quyền, các cơ quan nhà
nước và cá nhân được trao quyền mà không tiếm quyền của dân; đây
là vấn đề quyết định nhất bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về
nhân dân. Phát huy mạnh mẽ và đặt yêu cầu lắng nghe nhân dân, phục vụ nhân dân
là yêu cầu tối cao trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và
từng đại biểu Quốc hội nhằm hoàn thành trọng trách mà nhân dân giao. Hoạt động
lập pháp phải hướng đến mục tiêu con người, tức là vừa giải phóng mọi tiềm năng
của dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát triển sức dân vừa phải tiết kiệm sức
dân.
Thứ tư, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phát triển
bền vững kinh tế - xã hội - môi trường: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công
nghệ và những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng pháp
luật để phát huy đổi mới sáng tạo, tận dụng tối đa lợi ích và giảm thiểu tối đa
rủi ro, hướng đến việc giải quyết hiệu quả hàng loạt vấn đề đặt ra trong Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (18). Xây dựng các “sandbox” về mô hình đầu tư,
kinh doanh mới, trong đó, có mô hình như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, du
lịch thông minh, fintech... Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quy hoạch, kế hoạch
phát triển vùng và bố trí nguồn lực nhằm phát huy lợi thế vùng, đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt. Hoàn thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử
dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo đảm công khai, minh bạch và khắc phục
tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí. Đẩy nhanh hoàn thiện
hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm đồng bộ, minh bạch các yếu tố
thị trường để có khả năng vốn hóa các nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và
sử dụng có hiệu quả. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế, bảo đảm công bằng xã hội với bảo vệ môi trường.
Thứ năm, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc
tế: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiều
hình thức hội nhập quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện,
mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Nội luật hóa đầy đủ và phù hợp
những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tích cực
và có trách nhiệm trong việc tham gia các hoạt động xây dựng các điều ước quốc
tế. Theo đó, cần chủ động chuyển từ việc tham gia các luật chơi định sẵn thành
chủ thể thiết kế luật chơi trên trường quốc tế, từng bước đề xuất xây dựng các
điều ước quốc tế từ thực tiễn Việt Nam.
Thứ
sáu, trong quy trình lập pháp: Tiếp tục đổi
mới quy trình lập pháp, mở rộng dân chủ trong xây dựng pháp luật để các quy
định của luật có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, có căn cứ khoa học. Hoàn
thiện cơ chế để bảo đảm tính phản biện, khách quan, bảo đảm đánh giá thực tiễn
đầy đủ, lắng nghe ý kiến của nhân dân, của đối tượng trực tiếp chịu sự tác động
của dự án luật. Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý
kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng và thẩm
tra luật. Đổi mới mạnh mẽ về cách thức, phương thức thẩm tra, lấy ý kiến của
Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, tăng cường tham vấn, tham gia của
các chuyên gia, nhà khoa học. Nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp luật điều chỉnh
hoạt động vận động chính sách, bảo đảm khách quan, minh bạch, có kiểm soát,
giám sát chặt chẽ để góp phần hữu hiệu mở rộng dân chủ, đồng thời, chống lợi
ích nhóm trong hoạt động lập pháp.
Thứ bảy, trong tổ chức thi thành pháp luật: Gắn kết chặt chẽ
giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện cơ
chế phối hợp giữa cơ quan ban hành pháp luật, cơ quan tổ chức thi hành pháp
luật và cơ quan bảo vệ pháp luật. Tập trung nguồn lực và các điều kiện để thực
hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật,
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện
toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian trong thi hành pháp
luật. Tăng cường và đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật và tư vấn, trợ giúp pháp lý để pháp luật được triển khai thực hiện nhanh
chóng trong cuộc sống. Thường xuyên tiến hành giám sát, đánh giá, tổng kết thi
hành pháp luật, rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật, kịp thời phát hiện và
khắc phục những điểm bất cập, thiếu sót, mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống
pháp luật.
Thứ tám, trong tuyên truyền, phổ biến, lan tỏa, phát huy tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong hoạt động lập pháp nói riêng, quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói chung: Tiếp
tục nâng cao nhận thức cho các đại biểu Quốc hội, cán bộ, công chức làm công
tác xây dựng pháp luật về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp; xác định tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho
hoạt động lập pháp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động lập pháp đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; góp phần nâng cao bản
lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực tiễn và xây
dựng pháp luật để giải quyết hiệu quả những vấn đề đang đặt ra trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Tóm lại, vận dụng, phát huy những thành tựu vô
giá của tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động lập pháp cùng với việc tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hoạt động của Quốc hội, nâng cao vai trò của Quốc hội,
cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước ta là nền tảng, yêu cầu bắt buộc để hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần
xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hệ thống
pháp luật hoàn thiện là tiền đề để hiện thực hóa mô hình phát triển mà toàn
Đảng và toàn dân ta mong muốn như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định(19). Đó là, phát triển về kinh tế đi đôi
với tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương
trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; phát triển bền vững, hài
hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện
tại và tương lai với một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân./.
Nguồn:tapchicongsan.org.vn