Để hoàn
thành chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các chủ thể, các tầng lớp trong xã
hội nhưng trong đó, đội ngũ trí thức đóng một vai trò hết sức quan trọng. Các
văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới đều nhất quán khẳng định vai trò của
đội ngũ trí thức trong xây dựng nền văn hóa dân tộc. “Xây dựng và phát triển
văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng».
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các trí
thức năm 1964. ( GS. Trần Hữu Tước ngồi bên trái Bác Hồ). Ảnh
http://baotanglichsu.vn/
1. XÂY DỰNG HỆ THỐNG LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA VÀ
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC
Lý luận là một hệ thống các quan điểm phản ánh
thực tiễn, được thể hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được khái quát,
tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các
quy luật của hiện thực khách quan. Hay nói cách khách, lý luận là hệ thống
những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn có tác dụng chỉ đạo hoạt
động thực tiễn. Lý luận về văn hóa là hệ thống tri thức đặc thù của lĩnh vực
văn hóa. Để nền văn hóa dân tộc vận động và phát triển một cách toàn diện cả bề
rộng và chiều sâu, đáp ứng được các các yêu cầu của thời đại, của đất nước thì
cần phải xây dựng được hệ thống lý luận văn hóa tiên tiến. Và việc xây dựng hệ
thống lý luận về văn hóa và phát triển chính là nhiệm vụ của đội ngũ trí thức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Văn hóa
phải soi đường cho quốc dân đi”. Trong ý nghĩa “phải soi đường” của văn hóa,
ngoài việc khẳng định vai trò dẫn đường của những giá trị tốt đẹp, hoàn thiện
phẩm giá của con người và xã hội loài người, còn có cả vai trò định hướng của
một hệ thống lý luận văn hóa nhân văn, vì con người. Kể từ khi Đảng ra đời và
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã rất chăm lo đến việc phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức trong xây dựng hệ thống lý luận văn hóa và đường lối văn hóa.
Đội ngũ trí thức có nhiệm vụ tìm tòi, phát hiện, xây dựng hệ thống quan niệm,
khái niệm, quy luật, phạm trù, tính chất của nền văn hóa dân tộc, khái quát
thực tiễn phát triển văn hóa dân tộc đúc rút thành hệ thống lý luận về văn hóa
và phát triển. Nhưng bên cạnh đó, đội ngũ trí thức cũng có một nhiệm vụ rất
quan trọng là đấu tranh chống lại các phản văn hóa, phản giá trị.
Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm
1943 có mục “Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất
là những nhà văn hóa mácxít Việt Nam” trong đó khẳng định những nhà văn hóa
phải dùng vũ khí lý luận để chống lại thứ văn hóa phản tiến bộ, phát huy trí
tuệ xây dựng nền văn hóa mới dân chủ với những công việc cơ bản cần phải thực
hiện như: tranh đấu về học thuyết, tư tưởng; tranh đấu về tông phái văn nghệ;
tranh đấu về tiếng nói, chữ viết (1).
Như vậy, ngay từ những ngày đầu cách mạng,
Đảng ta đã xác định rất rõ nhiệm vụ của đội ngũ trí thức đối với việc xây dựng
hệ thống lý luận về văn hóa, đó là không ngừng nghiên cứu để làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận về xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc, đồng thời kiên quyết
đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, phản tiến bộ, xuyên tạc về sự
lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa cũng như chống lại nền văn hóa dân tộc.
Những cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa thời kỳ này đã phản ánh vai
trò và trách nhiệm của đội ngũ trí thức trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Ngay những ngày đầu thời kỳ đổi mới, Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh đã có nhiều cuộc đối thoại với đội ngũ trí thức, văn nghệ
sĩ. Đảng cũng tiếp nhận những kết quả nghiên cứu mới về văn hóa. Thông qua đó,
đường lối văn hóa của Đảng đã có sự thay đổi từ nền văn hóa “có nội dung xã hội
chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản”(2) đến nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là một trong những đặc điểm của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, vừa là định hướng của một nền văn hóa mới. Đội ngũ trí thức đã
không ngừng nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tiếp thu những thành tựu lý luận về
văn hóa của thế giới, kế thừa những giá trị lý luận văn hóa dân tộc để hình
thành hệ thống lý luận về một nền văn hóa mới: nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Hệ thống lý luận về xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc
được thể hiện rõ trong hệ thống Văn kiện, Nghị quyết của Đảng về văn hóa, trong
các chính sách phát triển văn hóa của đất nước thời kỳ đổi mới, trong các
chương trình nghiên cứu khoa học và trong thực tiễn xây dựng nền văn hóa Việt
Nam. Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được đề
cập đến trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội năm 1991. Tư tưởng này được cụ thể hóa trong Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII năm 1998. Không dừng lại ở đó, đội ngũ trí thức tiếp tục
nghiên cứu, sáng tạo nên những thành tựu lý luận mới, khẳng định vai trò vô
cùng quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước. Văn hóa
gắn với sự hình thành và phát triển con người, thấm sâu vào mọi hoạt động sống
của con người. Từ đó, Đảng ta đã tiếp tục tiếp nhận những thành tựu nghiên cứu
của đội ngũ trí thức, tổng kết thực tiễn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII và ban hành Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới được khẳng định, đó là: một nền văn hóa yêu nước và tiến bộmà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên cơ sở của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người.
Nền văn hóa tiên tiến không chỉ ở nội dung mà cả ở hình thức, phương thức
chuyển tải. Và tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam được đặt trong mối
quan hệ hài hòa với bản sắc văn hóa dân tộc. Những giá trị văn hóa truyền thống
như yêu nước, nhân văn, đoàn kết, trọng nghĩa tình đạo lý, cần cù trong lao
động, giản dị trong lối sống, tinh tế trong ứng xử, ... vẫn là những giá trị
cốt lõi để từ đó bổ sung những giá trị mới, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn
hóa nhân loại.
Từ thực tiễn phát triển văn hóa dân tộc, từ
những kinh nghiệm của thế giới, cả những kinh nghiệm thành công và chưa thành
công, đội ngũ trí thức Việt Nam đã tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học,
phát triển lý luận về xây dựng nền văn hóa dân tộc cho phù hợp với quy luật
khách quan cũng như điều kiện cụ thể của đất nước và bối cảnh khu vực, quốc tế.
Nhiều nội dung mới về xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc đã được đội
ngũ trí thức đề xuất, trở thành những định hướng, những nhiệm vụ phát triển văn
hóa như: văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực, là sức mạnh
nội sinh trong phát triển đất nước, sức mạnh mềm văn hóa, công nghiệp văn hóa,
thị trường các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, …
Điều đó cho thấy, những sáng tạo không ngừng
của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực lý luận đã góp phần quan trọng làm sáng rõ
sự phát triển nền văn hóa mới của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới nói riêng cũng
như con đường phát triển của đất nước nói chung. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng
định: “Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa
học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề
mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng
cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư
tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng
bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận
với trình độ của khu vực và thế giới”(3).
|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các trí thức, văn nghệ sĩ và
nhà khoa học. Ảnh: VGP.
|
2. SÁNG TẠO RA CÁC SẢN PHẨM, CÁC GIÁ TRỊ VĂN
HÓA
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nói “mỗi thế hệ
một mặt tiếp tục cái hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn
toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động
đã hoàn toàn thay đổi”(4). Mặc dù chúng ta vẫn thực hiện những hoạt động tưởng
chừng như giống nhau trong các thời đại (lao động, sản xuất, học tập, đi lại,
khám chữa bệnh…) nhưng trong những hoàn cảnh khác nhau thì đòi hỏi phải có sự
sáng tạo để thích ứng với những điều kiện khác nhau đó. Trong dòng chảy của văn
hóa Việt Nam, đội ngũ trí thức luôn đóng vai trò là người sáng tạo ra các giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần; nhưng trong từng hoàn cảnh khác nhau, những
giá trị văn hóa ấy luôn được làm mới tạo nên sự phong phú, đa dạng trong thống
nhất của nền văn hóa Việt Nam.
Bản chất của văn hóa là sáng tạo ra những giá
trị mới phục vụ cho sự sinh tồn và phát triển của con người. Tất nhiên, sự sáng
tạo trong văn hóa không phải là của độc quyền đội ngũ trí thức. Nhưng đội ngũ
trí thức luôn tiên phong trong sự tìm tòi, sáng tạo những giá trị văn hóa mới,
tạo nên những đỉnh cao văn hóa của dân tộc. Trong một nền văn hóa thường có
diện và điểm. Nếu như diện của một nền văn hóa là kết quả những sáng tạo của
cộng đồng, thì điểm là những điểm nhấn, những thành tựu văn hóa đỉnh cao của
những cá nhân xuất sắc. Diện và điểm đều có những vai trò lịch sử của mình.
Nhưng những đỉnh cao văn hóa thường là kết tinh tài năng, trí tuệ, sức sáng tạo
của những người trí thức, văn nghệ sĩ. Những Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn,
Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Nôm của Hồ
Xuân Hương, … là những đỉnh cao của văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
Năm 2008, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Ðảng lần thứ 7 khóa X đã ra Nghị quyết số 27 - NQ/TW Về xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết đã khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến
bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri
thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng,
tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”(5). Điều đó cho thấy,
trong xã hội hiện đại, đội ngũ trí thức có vai trò, vị thế đặc biệt quan trọng
trong sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thời
đại mới, trong những hoàn cảnh và điều kiện mới.
Trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ
trí thức luôn miệt mài nghiên cứu, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, thử thách
để đạt được những thành tựu to lớn vì sự phát triển của đất nước. Những mô hình
phát triển “kinh tế tri thức”, “kinh tế tuần hoàn”, “Nhà nông - Nhà nước - Nhà
khoa học - Nhà doanh nghiệp”, “Chính phủ kiến tạo”, “Chính phủ số”…. đã cho
thấy rất rõ vai trò to lớn của đội ngũ trí thức. Trong lĩnh vực văn hóa, văn
nghệ, trong thời gian gần đây, đã có hàng trăm tác giả, tác phẩm đã được Đảng,
Nhà nước, Nhân dân tôn vinh bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước.
Đây là những phần thưởng cao quý dành cho những tác phẩm đặc biệt xuất sắc, có
giá trị cao về văn học, nghệ thuật, về nội dung tư tưởng; là sự ghi nhận và
đánh giá của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với văn nghệ sĩ, trí thức đã có
nhiều cống hiến, vì sự phát triển của nền văn học nghệ thuật nước nhà.
3. BẢO VỆ, TRAO CHUYỀN, LAN TỎA CÁC GIÁ TRỊ
VĂN HÓA
Để những giá trị văn hóa dân tộc được lan tỏa
theo thời gian và không gian đòi hỏi phải có những chủ thể thực hành, bảo vệ và
trao truyền các giá trị ấy. Cố nhiên, người dân, quần chúng nhân dân là lực
lượng đông đảo nhất để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Nhưng đội
ngũ trí thức trong lĩnh vực văn hóa là những người am hiểu về các giá trị văn
hóa dân tộc, có khả năng khái quát, dẫn dắt cộng đồng trong việc thực hành văn
hóa. Bằng tri thức, phương pháp, uy tín, họ không chỉ truyền dạy cho cộng đồng
cách thức thực hành văn hóa mà họ còn nâng cao nhận thức cho cộng đồng về giá
trị của của sản phẩm văn hóa để từ đó chung tay bảo vệ, gìn giữ các giá trị văn
hóa. Đặc biệt, đối với các di sản văn hóa có nguy cơ mai một, thất truyền thì
đội ngũ trí thức là lực lượng quan trọng để phục hồi, phục dựng, để hóa giải
các nguy cơ. Trí thức cũng là lực lượng có vai trò nòng cốt trong quá trình
quảng bá, lan tỏa các giá trị văn hóa dân tộc. Họ có thể tư liệu hóa các giá
trị văn hóa qua sưu tầm, phim, ảnh, các công trình nghiên cứu; mô hình hóa việc
thực hành các giá trị văn hóa thông qua các câu lạc bộ, các hội, nhóm; … Bằng
nhiều cách thức khác nhau, những giá trị văn hóa được đội ngũ trí thức đưa đến
với công chúng trong và ngoài nước. Đây cũng chính là cách phát huy sức mạnh
mềm văn hóa dân tộc, làm cho công chúng thấy được sức hấp dẫn của các giá trị
văn hóa.
Thông qua thực hành văn hóa, đội ngũ trí thức
thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn hóa dân tộc mà không làm mất đi truyền
thống văn hóa, bản sắc dân tộc. Sự đóng góp của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực
giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ cũng đã góp phần quan trọng trọng bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Việc ứng dụng những thành tựu của khoa
học công nghệ đã tạo ra những hướng đi mới trong bảo tồn di sản văn hóa, trong
thúc đẩy giao lưu văn hóa. Những bảo tàng 3D đã làm giảm nguy cơ tổn hại đến
các hiện vật. Những công nghệ thực tế ảo đã làm sống dậy nhiều thực hành văn
hóa truyền thống, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là thế hệ
trẻ về các giá trị văn hóa truyền thống như lễ hội, các hình thức diễn xướng
dân gian, … Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là những
thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi cách thức sáng tạo,
thực hành văn hóa. Sự tiên phong của đội ngũ trí thức trong việc sáng tạo ra
những sản phẩm khơi dậy tiềm năng sáng tạo văn hóa của con người là những đóng
góp hết sức thiết thực trong việc xây dựng nền văn hóa dân tộc.
Thực tế phát triển của nhân loại đã cho thấy
một quy luật khách quan “Văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa suy thì dân tộc
yếu, văn hóa mất thì dân tộc diệt”. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng
như hiện nay, để không trở thành bản sao, bóng mờ của người khác, đòi hỏi các
quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập phải có bản lĩnh. Bản sắc văn hóa là
một lợi thế của Việt Nam trong phát triển, nhưng để hội nhập thành công, để bản
sắc văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh của đất nước thì đòi hỏi phải có trí
tuệ và bản lĩnh. Chính vì vậy, việc giữ gìn, trao truyền, khẳng định giá trị
văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc là đòi hỏi cấp thiết. Bảo tồn, giữ gìn, phát
huy giá trị văn hóa dân tộc không chỉ khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc mà còn
khẳng định chủ quyền đất nước. Đây là vấn đề của cả dân tộc nhưng đội ngũ trí
thức giữ trọng trách quan trọng.
4. TIÊU DÙNG, THẨM ĐỊNH VÀ THỤ HƯỞNG CÁC GIÁ
TRỊ VĂN HÓA
Đội ngũ trí thức không chỉ là chủ thể sáng
tạo, thực hành, lan tỏa các giá trị văn hóa, các sản phẩm văn hóa mà chính họ
là người tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. Với tư cách là người tiêu dùng các sản
phẩm văn hóa, người trí thức góp phần tạo động lực cho việc sáng tạo những giá
trị văn hóa mới. Nhưng việc tiêu dùng các giá trị văn hóa của người trí thức có
sự khác biệt tương đối so với các nhóm xã hội khác. Người trí thức, bằng năng
lực, tri thức của mình, là những chủ thể có khả năng đánh giá, thẩm định những
sản phẩm văn hóa để từ đó khẳng định hoặc phê phán. Với uy tín của mình, đội
ngũ trí thức còn có khả năng tạo ra những trào lưu xã hội trong việc tiêu dùng
các sản phẩm văn hóa. Việc đánh giá của những trí thức có tên tuổi về các sản
phẩm văn hóa sẽ thu hút được sự quan tâm của xã hội về sản phẩm văn hóa đó. Nếu
đó là sự đánh giá tích cực, sẽ tạo nên những hiệu ứng tích cực trong việc phổ
biến, lưu thông, tiêu dùng các sản phẩm đó và ngược lại. Hay nói cách khác,
hành vi tiêu dùng, thái độ của đội ngũ trí thức với các sản phẩm văn hóa có tác
dụng định hướng cho xã hội trong việc tiếp nhận các sản phẩm văn hóa.
Nhưng không chỉ dừng lại ở việc thẩm định các
giá trị văn hóa trong các sản phẩm văn hóa, với năng lực của mình, đội ngũ trí
thức là lực lượng có khả năng tiếp biến, sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới từ
chính các sản phẩm văn hóa mà họ được tiếp nhận. Lịch sử văn hóa Việt Nam đã
chứng kiến nhiều cuộc giao lưu văn hóa lớn với các nền văn hóa, văn minh lớn
của nhân loại. Và trong những lần giao lưu văn hóa ấy, đội ngũ trí thức luôn
đóng vai trò nổi bật trong việc tiếp nhận và tiếp biến những giá trị văn hóa
của nhân loại để làm phong phú hơn giá trị văn hóa dân tộc. Có thể nói, đội ngũ
trí thức Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đã có kinh nghiệm trong việc lựa
chọn những giá trị ngoại sinh để biến đổi, cấu trúc lại cho phù hợp với văn hóa
Việt Nam, biến những yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh, thành bộ phận hữu
cơ của văn hóa Việt Nam để tiếp tục phát triển nền văn hóa dân tộc.
Ngày nay, hội nhập quốc tế vừa mang lại những
thời cơ lớn nhưng cũng mang đến những thách thức không nhỏ cho quá trình phát
triển văn hóa dân tộc. Những thách thức đó diễn ra đối với việc giữ gìn, bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc vừa là thách thức đối với việc tiêu dùng,
thẩm định, thụ hưởng những giá trị văn hóa của nhân loại. Đội ngũ trí thức đã
trăn trở rất nhiều trong quá trình giao lưu, tiếp biến những giá trị văn hóa
của các dân tộc khác trong thời đại ngày nay. Bởi nếu chúng ta không đủ bản
lĩnh, sức mạnh, sự sáng suốt thì rất dễ bị những yếu tố văn hóa ngoại lai lấn
át, làm thui chột và suy yếu giá trị văn hóa dân tộc; các thế lực bên ngoài sẽ
thực hiện việc áp đặt văn hóa; ta tự đánh mất mình trong thế giới hiện đại.
Nhận thức rõ những khó khăn thách thức đó, đội
ngũ tri thức đã chủ động đổi mới tư tuy về văn hóa và phát triển văn hóa trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng. Đội ngũ trí thức đã góp phần quan trọng trong đánh giá, tiếp nhận
những thành tựu mới về lý luận văn hóa, chuyển giao thành tựu về khoa học kỹ
thuật, công nghệ nhằm hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc, mở rộng hoạt động xuất,
nhập khẩu sản phẩm văn hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng đa dạng, phong
phú của người dân.
Ngoài ra, thông qua tiêu dùng, thẩm định, thụ
hưởng các giá trị văn hóa, đội ngũ trí thức cũng nhận thức rõ hơn những yếu
kém, bất cập trong phát triển văn hoá dân tộc, những thiếu hụt của văn hóa nước
nhà. Từ đó, đội ngũ trí thức đề xuất với Đảng, Nhà nước những yếu tố văn hóa
mới cần được hình thành trong quá trình phát triển nền văn hóa mới cũng như quá
trình đổi mới đất nước. Điều này góp phần quan trọng vào quá trình hoàn thiện,
phát triển toàn diện văn hóa, con người Việt Nam.
Ngày nay, văn hóa được khẳng định là một lĩnh
vực trọng yếu của quốc gia trong quá trình phát triển. Để khơi dậy được giá trị
văn hóa dân tộc, đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đòi hỏi phải phát huy được vai trò của các chủ thể, trong đó cần đặc biệt quan
tâm đến vai trò của đội ngũ trí thức. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã
có nhiều chính sách phát triển đội ngũ trí thức, trong đó có đội ngũ trí thức
trong lĩnh vực văn hóa. Tuy nhiên, để phát huy được vai trò của đội ngũ trí
thức trong xây dựng nền văn hóa dân tộc, đòi hỏi cần có sự quan tâm hơn nữa đối
với đội ngũ này. Sự quan tâm này phải được thể hiện ở hệ thống chính sách toàn
diện và đồng bộ, sự quan tâm này phải được thể hiện ở nguồn lực đầu tư xây dựng
đội ngũ, sự quan tâm này phải được thể hiện ở tôn vinh, khích lệ của Đảng, Nhà
nước và xã hội đối với những nỗ lực, cống hiến của họ. Có như vậy, đội ngũ trí
thức sẽ có động lực sáng tạo, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại,
khoa học, nhân văn.
Nguồn:tuyengiao.vn