Vai trò của công tác tổng kết thực tiễn đối với kết quả tham mưu, đề xuất về công tác tổ chức xây dựng Đảng
Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi
trọng tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận. Nhờ
thường xuyên tổng kết thực tiễn mà đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn phù hợp với thực tiễn, được
kiểm chứng bằng những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.
|
Đại hội XIII của Đảng là
sự kiện chính trị trọng đại nhất của Đảng và của dân tộc ta trong năm 2021.
Ảnh: TL.
|
Tổng kết thực tiễn là một
khâu không thể thiếu và có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của
lý luận. Tổng kết thực tiễn, xét về bản chất là quá trình bằng tư duy khoa học
với phương pháp biện chứng duy vật làm cơ sở để chủ thể tổng kết, phân tích,
đánh giá, khái quát kinh nghiệm thực tiễn nhằm kiểm tra sự đúng sai của lý
luận, từ đó bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận và rút ra những bài học
kinh nghiệm chỉ đạo tổ chức thực tiễn và hoạt động lý luận tiếp theo. Tổng
kết thực tiễn là một cấu phần trong công tác nghiên cứu lý luận của
Đảng, nhằm kiểm nghiệm các tri thức lý luận đã có, đồng thời thu
thập, bổ sung những tri thức thực tiễn mới vào hệ thống lý luận của
Đảng.
Tổng kết thực tiễn chỉ có
giá trị và ý nghĩa khi những bài học kinh nghiệm được rút ra từ tổng kết thực
tiễn có vai trò chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động tổ chức thực tiễn tiếp
theo, nghĩa là phải gắn với định hướng nghiên cứu lý luận và định hướng chính
sách. Do đó, về bản chất, tổng kết thực tiễn cũng là nghiên cứu lý
luận. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử,
trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ
ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế”1; lý luận là do “kinh
nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích và kết luận những
kinh nghiệm đó thành ra lý luận”2; “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
quá trình lịch sử”3. Còn “Lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước
đến nay của tất cả các nước”4.
Lý luận bắt nguồn từ thực
tiễn, được hình thành, bổ sung, phát triển từ tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Chính vì vậy, trong công tác lý luận, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ và đề cao
vị trí, vai trò của hoạt động tổng kết thực tiễn. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa IX về “Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới” đã khẳng định phải: “Coi trọng việc tổng kết thực tiễn trong nghiên
cứu lý luận và trong hoạt động của các cấp ủy đảng; coi tổng kết thực tiễn là
nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành; gắn nghiên cứu thực tiễn Việt Nam
với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại”5.
Đại hội XII của Đảng
nhấn mạnh: “Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách với
phù hợp quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột
phá để phát triển”6, phải “đẩy mạnh công tác tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý
luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước”7.
Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn
thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
với định hướng chính sách”8.
Vai trò của hoạt
động tổng kết thực tiễn đối với việc tham mưu về công tác tổ chức xây dựng Đảng
Tổng kết thực tiễn góp phần quan trọng trong
việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc tham mưu xây dựng các văn bản về công
tác tổ chức xây dựng Đảng
Trong quá trình đổi mới ở
nước ta, việc tăng cường tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận đã góp
phần “cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển
đường lối đổi mới của Đảng; góp phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội”9.
Từ tổng kết “khoán chui” ở
một số địa phương trước Đổi mới, như chính sách khoán của Vĩnh Phúc hay mô hình
phân phối thu mua ở Long An theo giá thoả thuận,… Đảng ta đã ban hành Chỉ thị
số 100-CT/TW ngày 13-1-1981 về Cải tiến công tác khoán, mở rộng “Khoán sản phẩm
đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp, sau là Nghị
quyết 10-NQ/TW ngày 5-4-1988 về Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nhờ đó, từ
một nước thiếu lương thực triền miên, đến năm 1989, sản lượng lúa gạo của cả
nước đã đạt 21,5 triệu tấn và xuất khẩu được 1,2 triệu tấn lúa gạo.
Sau khi nghiên cứu, tổng
kết sự nghiệp xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước (1976-1986), Đại hội VI của
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Từ sau năm 1986 đến Đại hội XIII, Đảng
không ngừng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, làm rõ nhiều vấn đề trong
đường lối đổi mới; xác định rõ mục tiêu, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; từ đó đúc kết 5 bài học kinh
nghiệm quý báu về xây dựng, chỉnh đốn Đảng như là những vấn đề lý luận căn cốt
của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn về công tác tổ
chức xây dựng Đảng luôn đa dạng, phong phú và có chiều hướng vận động, phát
triển nhanh, mạnh mẽ; do vậy, việc tổng kết thực tiễn triển khai công tác tổ
chức xây dựng Đảng có vai trò rất quan trọng trong phát triển lý luận. Nếu
không nghiên cứu, tổng kết thực tiễn sẽ không có cơ sở lý luận và thực tiễn để
nghiên cứu, tham mưu các nội dung về công tác tổ chức xây dựng Đảng phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nói cách khác, thông qua việc nghiên
cứu, sơ kết, tổng kết các chủ trương, nghị quyết về công tác tổ chức xây dựng
Đảng, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn đang đặt ra; đồng
thời làm cơ sở để tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
ban hành các nghị quyết, kết luận, quy định, quy chế về công tác tổ chức xây
dựng Đảng, góp phần khắc phục, ngăn ngừa “chủ nghĩa kinh nghiệm” và căn bệnh
giáo điều, áp đặt, chủ quan. Tổng kết thực tiễn về công tác tổ chức xây dựng
Đảng cũng là để kiểm chứng tính đúng sai, sự phù hợp của các quyết sách đã ban
hành, trên cơ sở đó xây dựng luận cứ khoa học cho những chính sách tiếp theo.
Tổng kết thực tiễn góp phần đánh giá các chủ
trương, đường lối của Đảng về công tác tổ chức xây dựng Đảng
Đường lối của Đảng luôn
xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo kiểm nghiệm lý
luận, nhờ đó mà đủ sức soi đường, chỉ lối, đưa sự nghiệp cách mạng
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng
đều nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối,
chủ trương, chính sách về công tác tổ chức xây dựng Đảng, đặc biệt là đúc kết
những kinh nghiệm quý, cách làm hay từ “điểm” mà nhân ra “diện”; giúp phát hiện
những gương điển hình tiên tiến để giáo dục, nêu gương cho đảng viên và quần
chúng.
Các đường lối, chủ trương
của Đảng nói chung và về công tác tổ chức xây dựng Đảng nói riêng, sau một thời
gian ban hành, triển khai trong thực tiễn, nếu có vấn đề không phù hợp hoặc sau
một thời gian ban hành sẽ có những nội dung không còn phù hợp với bối cảnh tình
hình mới, gây khó khăn cho các cấp ủy, tổ chức đảng; đòi hỏi các nhà lãnh đạo
phải tiến hành tổng kết lại quá trình triển khai của các địa phương, đơn vị,
trên cơ sở đó sẽ đánh giá được văn bản đó còn phù hợp với thực tiễn hay không
để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới
(nếu thấy cần thiết).
Bên cạnh đó, đối với những
vấn đề chưa đủ luận cứ khoa học và thực tế, chưa có tiền lệ, Trung ương cho
phép các địa phương sử dụng hình thức “thí điểm”, như thí điểm các mô hình tổ
chức mới và kiêm nhiệm chức danh, việc thí điểm đổi mới cách thức tuyển chọn
các chức danh lãnh đạo, quản lý hay tổ chức thí điểm sinh hoạt tổ đảng thay thế
cho sinh hoạt chi bộ đối với những chi bộ có đông đảng viên… Sau một thời gian
nhất định, Trung ương cũng cần phải tổng kết lại những kết quả đã triển khai
của các địa phương để xem chủ trương đó có hợp lý hay không? Nếu quá trình tổng
kết cho thấy chủ trương đó là phù hợp, Trung ương có thể cân nhắc để cho phép
áp dụng đại trà trên thực tế; ngược lại, sẽ yêu cầu dừng việc thí điểm lại,
giảm thiểu sai sót, hậu quả không đáng có.
Các chủ trương, đường lối
của Đảng về công tác tổ chức xây dựng Đảng sau một chu trình vận động
5-10 năm đều được sơ kết, tổng kết để tiếp tục điều chỉnh, bổ sung
trong chu trình mới. Qua tổng kết thực tiễn, các nghị quyết, chỉ thị, kết
luận của Đảng ngày càng hoàn thiện, bao phủ được các lĩnh vực của công tác tổ
chức xây dựng Đảng, từ công tác cán bộ, tổ chức bộ máy, biên chế, cơ sở đảng,
đảng viên và bảo vệ chính trị nội bộ, từ đó giải quyết được những vấn đề thực
tiễn đặt ra. Đồng thời, những khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn chính
là thước đo đánh giá tính phù hợp, đúng đắn của các chủ trương, chính sách.
Thực trạng công tác
tổng kết thực tiễn về công tác tổ chức xây dựng Đảng
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền, Ban Tổ chức Trung ương đã bám sát Chương trình làm việc của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và tình hình thực tiễn công tác
tổ chức xây dựng Đảng để tham mưu sơ kết, tổng kết, bổ sung, sửa đổi các văn
bản của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng thời đề xuất
bổ sung vào chương trình công tác những nội dung cần sơ kết, tổng kết, bổ sung,
sửa đổi nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác tổ chức xây
dựng Đảng; góp phần thiết thực vào quá trình xây dựng dự thảo một số nghị
quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
và xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng.
Để có cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng Đề án trình Hội nghị Trung ương, từ nhiệm kỳ Đại hội XI đến nay,
Ban Tổ chức Trung ương đã tham mưu hoàn thành việc sơ kết, tổng kết 68 văn bản;
gồm 4 văn bản thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương; 34 văn bản thuộc
thẩm quyền của Bộ Chính trị và 30 văn bản thuộc thẩm quyền của Ban Bí thư;
trong đó có nhiều nội dung quan trọng, tác động sâu rộng tới toàn hệ thống
chính trị.
Trong quá trình sơ kết,
tổng kết, Ban Tổ chức Trung ương đã thường xuyên xin ý kiến của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư về chủ trương, định hướng và về từng nội dung cụ thể đã thống nhất
để bảo đảm đúng trọng tâm, trọng điểm; trong đó, có nhiều nội dung quan trọng,
mang tính định hướng, đổi mới, góp phần hoàn thiện thể chế về công tác tổ chức
xây dựng Đảng như: Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá
VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
tổng kết công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, khóa XII; công
tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý; về lấy phiếu tín nhiệm
của Trung ương đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Tổng kết
Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng;
Quy chế bầu cử tại Đại hội Đảng XI, Đại hội XII của Đảng; Quy chế làm việc của
Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng; phân bổ đại biểu ở các kỳ đại hội X, XI, XII
của Đảng. Tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng; sơ kết,
tổng kết nghị quyết, kết luận về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy trong hệ
thống chính trị; mô hình hoạt động của tổ chức đảng ngoài nước; đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị - xã hội; tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức; thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Sơ kết, tổng kết việc thực hiện các văn bản về công tác cán bộ; xây dựng quy
định về luân chuyển cán bộ, phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán
bộ ứng cử; việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng
ngân sách Nhà nước và xử lý sai phạm trong công tác tuyển dụng cán bộ. Sơ kết,
tổng kết các nghị quyết, kết luận về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; việc kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân đủ
tiêu chuẩn vào Đảng và phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh
tế ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Sơ kết, tổng kết thực hiện các văn bản về
bảo vệ chính trị nội bộ Đảng và tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ
trong tình hình hiện nay…
Trong quá trình nghiên cứu,
tham mưu các đề án, nhiệm vụ về công tác tổ chức xây dựng Đảng, Ban Tổ chức
Trung ương đã chú trọng việc tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa
học... để lắng nghe ý kiến đóng góp của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin, tổ chức các hội nghị, hội thảo
bằng hình thức trực tuyến.
Công tác sơ kết, tổng kết
các văn bản của Trung ương được thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, hiệu
quả, trong đó có nhiều nội dung quan trọng, mang tính định hướng, đổi mới, góp
phần hoàn thiện thể chế về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Qua tổng kết đã phát
hiện những mô hình hay, các điển hình tiên tiến, những địa phương, đơn vị có
cách làm sáng tạo, hiệu quả để biểu dương, nhân rộng trong toàn Ngành; kịp thời
cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc xây dựng, ban hành các
văn bản về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Các văn bản ngay khi được ban hành
đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao của các cấp ủy, tổ chức đảng,
cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đạt được, việc tổng kết thực tiễn về công tác tổ chức xây dựng Đảng thời gian
qua còn một số hạn chế như: Công tác tổng kết thực tiễn chưa làm rõ được một số
vấn đề đặt ra trong bối cảnh tình hình mới. Đội ngũ cán bộ tham mưu về công tác
tổ chức xây dựng Đảng có không ít người chưa được đào tạo bài bản theo chuyên
ngành, không được cập nhật kiến thức mới thường xuyên nên năng lực nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, khái quát thành lý luận còn hạn chế. Chưa tách biệt giữa
công tác hành chính đảng với hoạt động nghiên cứu, tham mưu (bao gồm
cả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và tham mưu đường lối, chủ
trương); công tác quản lý, lưu trữ, khai thác hồ sơ, tài liệu còn hạn chế, nhất
là việc số hóa tài liệu để xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu khoa học
về lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Việc tra cứu, khai thác các thông tin về đề
án, đề tài gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian. Việc tổ chức khảo sát thực
tiễn tại các địa phương, cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước có lúc còn gặp khó
khăn. Trong quá trình tham mưu xây dựng đề án, nhiệm vụ còn chưa chủ động tổng
kết những mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả của địa phương, đơn vị để
nhìn nhận, đánh giá các chủ trương, đường lối về công tác tổ chức xây dựng
Đảng. Một số đề án sơ kết, tổng kết tuy đã phát hiện ra những mô hình hay,
những cách làm sáng tạo, hiệu quả, các điển hình tiên tiến, nhưng việc nhân
rộng còn hạn chế.
Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII đã thẳng thắn nhìn nhận, công tác tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có
chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế, “thiếu gắn bó mật thiết giữa
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, giữa cán bộ lý luận với cán bộ lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn”10. Những hạn chế, bất cập nêu trên có nguyên
nhân khách quan là quá trình đổi mới, phát triển đất nước nảy sinh nhiều vấn đề
mới, phức tạp, chưa có tiền lệ; chính vì vậy, việc tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu khoa học về công tác tổ chức xây dựng Đảng không kịp thời thay đổi để thích
ứng với yêu cầu.
Một số giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động tổng kết thực tiễn
Để nâng cao chất lượng tổng
kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập
trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao hơn
nhận thức của cấp ủy các cấp đối với công tác tổng kết thực tiễn
phục vụ nghiên cứu lý luận và hoạt động chỉ đạo, điều hành. Phải làm cho cấp ủy
các cấp và mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức rõ ưu điểm và
hạn chế của tư duy kinh nghiệm, trên cơ sở đó tìm giải pháp phát huy
ưu điểm và khắc phục hạn chế. Chú trọng nâng cao lý luận chính trị
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, phát triển tư duy lý
luận và tăng cường kỹ năng tổng kết thực tiễn. Coi trọng tổng kết thực
tiễn, cả những việc thành công và chưa thành công, làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn đặt ra; thường xuyên bổ sung, hoàn thiện thể chế; sâu sát cơ
sở, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực
hiện.
Hai là, hoàn thiện các
thể chế, cơ chế và điều kiện hóa cho tổng kết thực tiễn phục vụ
nghiên cứu lý luận. Ban hành các thể chế xác định rõ trách
nhiệm, thẩm quyền của cấp ủy, của cơ quan chuyên trách làm nòng cốt
trong tổng kết thực tiễn của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng. Rà soát, đánh
giá lại các cơ chế tổng kết thực tiễn hiện có đồng thời bảo đảm các
nguồn lực cần thiết cho việc sơ kết, tổng kết các văn kiện của Đảng; đặc biệt
coi trọng xây dựng, phát huy vai trò, tâm huyết, trí tuệ của đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, cán bộ làm công tác tham mưu.
Ba là, đa dạng hóa phương
thức tổng kết thực tiễn, gắn tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý
luận, nghiên cứu khoa học. Tổng kết thực tiễn lâu nay mới chủ
yếu coi trọng phương thức gián tiếp thông qua thành lập ban chỉ đạo
và tổ chức theo hệ thống dọc. Phương thức này rất cần thiết nhằm
triển khai một đề án, nhiệm vụ tổng kết thực tiễn - lý luận cụ
thể khi lý luận còn có độ trễ trước thực tiễn, đòi hỏi phải được
bổ sung bằng chính dữ liệu của đời sống hay chu trình của một nghị
quyết đủ niên độ thời gian (5, 10 năm) phải tổng kết, đánh giá. Ngoài
tổng kết theo phương thức gián tiếp thì còn có tổng kết theo phương
thức trực tiếp, tức người lãnh đạo dành thời gian đi cơ sở để quan
sát, điều tra, tổng kết các mô hình; nghiên cứu các nhân tố mới,
gương điển hình tiên tiến. Để phương thức tổng kết trực tiếp có hiệu
quả đòi hỏi phải định hình chế độ đi cơ sở của cán bộ lãnh đạo
các cấp; hình thành thói quen quan sát, điều tra, xem xét các tình
huống trong thực tiễn, đặc biệt là phát hiện các mâu thuẫn và hướng
giải quyết mâu thuẫn. Chế độ đi cơ sở giúp cán bộ có điều kiện nắm
bắt thực tiễn, bổ sung dữ liệu thực tiễn cho những nhận thức còn
chưa sáng rõ, đồng thời kiểm tra lý luận bằng thực tiễn. Các mô hình
hay, các điển hình tiên tiến, những cách làm sáng tạo, hiệu quả của các địa
phương rất phong phú trong đời sống, gồm cả gương tập thể và cá nhân,
cần phải được phân tích và đánh giá thấu đáo để phổ biến nhân
rộng, bổ sung cho tri thức lý luận.
Bốn là, tăng cường công
tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị để nâng cao chất lượng công tác tổng kết
thực tiễn; phát huy
dân chủ, tranh thu tối đa trí tuệ tập thể của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ
quan liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học, các đồng chí nguyên lãnh đạo có
nhiều kinh nghiệm về tổ chức xây dựng Đảng. Thường xuyên xin ý kiến của cấp có
thẩm quyền trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ về chủ trương,
định hướng; về từng nội dung cụ thể để việc triển khai bảo đảm đúng trọng tâm,
trọng điểm, tiết kiệm thời gian, công sức. Đồng thời, tập trung hoàn thiện cơ
sở dữ liệu khoa học về tổ chức xây dựng Đảng, đổi mới việc khảo sát tại các địa
phương, cơ quan, đơn vị theo hướng lồng ghép nhiều nội dung tương đồng khi khảo
sát, tăng cường khảo sát ở cơ sở để tiếp thu rộng rãi ý kiến của cán bộ, đảng
viên và đối tượng có liên quan.
Việc thực hiện có hiệu quả
4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng công
tác tổng kết thực tiễn, từ đó phát triển lý luận của Đảng để tiếp tục giải
quyết những vấn đề mới phát sinh. Đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, là
yêu cầu khách quan và cũng là vấn đề có tính quy luật trong công tác xây dựng
Đảng, có ý nghĩa cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Nguồn:xaydungdang.org.vn