Cách đây 75 năm, sáng
ngày 20/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, Chính phủ phát đi “Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, phát động toàn dân tộc Việt Nam bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Lời kêu gọi của Người đã trở thành
dấu ấn lịch sử, khẳng định khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội của nhân dân Việt Nam, trở thành phương châm chiến lược chỉ đạo con đường
cách mạng tiến đến thực hiện khát vọng phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt
Nam ngày nay.
|
Bút tích Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) (Ảnh:
hochiminh.vn)
|
1. Hòa bình - khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, dựa trên tinh
thần bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của Cách mạng Pháp 1791 và thực tiễn
thành quả cách mạng là “nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập
nên nước Việt Nam Cộng hòa Dân chủ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng,
Chính phủ lâm thời và toàn thể nhân dân Việt Nam đọc Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên
bố với thế giới rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”.
Với bản Tuyên ngôn đó, hòa bình của
nhân dân và dân tộc Việt Nam đã được lập lại trên cơ sở vững chắc của nền độc
lập, tự do mà nhân dân ta vừa giành được sau gần 100 năm đô hộ của thực dân,
phát xít và phong kiến. Bản Tuyên ngôn còn khẳng định
khát vọng hòa bình mà nhân dân Việt Nam đã đấu tranh, phấn đấu gìn giữ qua hàng
ngàn năm lịch sử. Là một dân tộc nhỏ bé, để tồn tại và phát triển, dân tộc Việt
Nam luôn thể hiện lòng dũng cảm, kiên cường, bất khuất, vượt qua biết bao cuộc
chiến tranh xâm lược, cường bạo trong lịch sử. Từ buổi đầu dựng nước, với
truyền thuyết Thánh Gióng, Nỏ thần Kim Quy, đến
thời kỳ đấu tranh giành độc lập, khẳng định quyền tự chủ với bài thơ thần
- Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, rồi đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi… đã không chỉ
khẳng định nền độc lập, tự chủ và tự do mà còn sang sảng tuyên bố khát vọng hòa
bình và chung sống hòa bình của dân tộc Việt Nam với các lân bang.
Tiếp nối khát vọng, phát huy truyền thống hòa bình của dân tộc,
trước bối cảnh thực dân Pháp quyết thực hiện âm mưu chiến tranh xâm lược Việt
Nam một lần nữa từ năm 1945 đến cuối năm 1946, đã buộc Đảng ta, Chính phủ ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh phải ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến. Tuy là lời phát động cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược cho toàn thể dân tộc Việt Nam, nhưng lời kêu gọi ấy lại tỏa sáng
khát vọng, ý chí hòa bình ngàn đời của dân tộc ta, nêu cao tinh thần chính
nghĩa, giá trị nhân văn cao đẹp của người Việt Nam, đề cao tư tưởng tiến bộ của
nhân loại và thời đại. Một lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến nhưng lại không có
một ngôn từ nào thuộc về “chiến tranh”, “tiêu diệt”, “bắn giết” kẻ thù… Trái
lại, nó hoàn toàn là những ngôn từ thể hiện tư tưởng hòa bình, chính nghĩa được
nêu cao hơn bao giờ hết, mà trước hết là tư tưởng: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng”.
Chính những ngôn từ
hòa bình trong Lời kêu gọi này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy truyền
thống, khát vọng hào hùng của dân tộc Việt Nam ta, cổ vũ tinh thần chiến đấu hy
sinh giữ vững nền độc lập, tự do của toàn thể nhân dân, dân tộc Việt Nam; đồng
thời, làm cho cộng đồng thế giới, nhân dân tiến bộ Pháp thấy được tính chất
chính nghĩa và ủng hộ sự nghiệp kháng chiến, tham gia bảo vệ nền độc lập, tự do
của nhân dân Việt Nam; làm cho nội bộ các thế lực thực dân Pháp xâm lược và đế
quốc can thiệp bị lên án, phân hóa, cô lập trên trường quốc tế; làm cho việc
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của nhân dân Việt Nam ngày càng
trở nên thuận lợi và được phát huy, tạo nên sức mạnh tổng hợp, tiến lên giành
thắng lợi từng phần, tiến đến giành thắng lợi toàn cục và quyết định trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
|
Ngôi nhà làng Vạn
Phúc, Hà Đông, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở, làm việc và viết lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) (Ảnh: hochiminh.vn)
|
2. Muốn hòa bình, không chỉ biết nhân nhượng mà còn phải biết đấu
tranh
Lịch sử về xây đắp nền hòa bình của dân tộc Việt Nam đã chứng
minh: Muốn có hòa bình, dân tộc Việt Nam đã không chỉ biết nhân nhượng
mà còn phải biết đấu tranh. Suốt chiều dài lịch sử đối đầu với
các thế lực phong kiến phương Bắc hùng mạnh và tàn bạo nhất, các nhà nước,
triều đại phong kiến Việt Nam đã luôn thực hành chủ trương nhân nhượng, đàm
phán hòa bình để giữ vững và bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Hòa bình
vừa là mục đích vừa là mưu lược, kế sách giữ nước lâu bền của các vương triều,
nhà nước Việt Nam nhằm trì hoãn, ngăn ngừa chiến tranh xâm lược. Tuy vậy, nền
hòa bình của Việt Nam không phải là một nền hòa bình nhu nhược, khiếp sợ, chủ
nghĩa hòa bình thuần túy. Trái lại, nền hòa bình của Việt Nam là nền hòa bình
dựa trên nguyên tắc giữ vững nền độc lập, tự do, chủ quyền thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc của Tổ quốc. Bằng mưu lược, kế sách của
mình, các triều đại, nhà nước trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã luôn biết vận
dụng nhiều phương thức, biện pháp đấu tranh có hiệu quả để bảo vệ vững chắc nền
hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc.
Trước mưu đồ quyết lập
lại sự thống trị của thực dân Pháp tại Đông Dương và Việt Nam trong tuyên bố
Prazzaville của tướng De Gaulle, ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tìm mọi cách thương lượng
với thực dân Pháp để tránh một cuộc chiến tranh trở lại cho dân tộc Việt Nam và
dân tộc Pháp. Hồ Chí Minh đã liên tiếp viết thư kêu gọi Chính phủ, Quốc hội,
Thủ tướng Pháp và trực tiếp gặp những người đứng đầu quân đội Pháp ở Hà Nội để
cứu vãn hòa bình. Đảng, Chính Phủ ta và bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không
bỏ qua bất cứ cơ hội nào để thương lượng, đàm phán giữ gìn hòa bình, kể cả ký
Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp ngày 6/3/1946, rồi sang tận Pháp để ký với Chính
phủ Pháp Tạm ước 14/9/1946… Nhưng suốt thời gian đó, quân Pháp vẫn đẩy mạnh các
cuộc tiến công xâm lấn nhiều thành phố, thị xã quan trọng khắp từ Nam ra Bắc.
Đặc biệt, Bộ Chỉ huy quân Pháp còn liên tiếp gửi hai tối hậu thư, đòi tước vũ
khí của tự vệ ta, đòi chiếm Bộ Công an và tuyên bố quân Pháp sẽ tự mình đảm
nhiệm trị an tại Hà Nội chậm nhất vào ngày 20/12/1946. Ngày 17/12, chúng đã gây
hấn ở Thủ đô Hà Nội, bắn phá trụ sở tự vệ ta, thảm sát ở phố Yên Ninh, Hàng
Bún; ngày 18/12 chúng chiếm Bộ Tài Chính, Bộ Giao thông công chính và ra sức
khiêu kích nhiều điểm ở Thủ đô…
Với dã tâm và hành động phát động chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp, không thể trì hoãn được nữa, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã bàn định rất kỹ càng, thận trọng để đi đến quyết định chấp nhận một
cuộc kháng chiến trường kỳ, đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập, tự do
và hòa bình của dân tộc Việt Nam. Đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Sáng ngày
20/12, Lời kêu gọi do Người đọc đã được phát đi, vang vọng trên sóng phát thanh
của Đài tiếng nói Việt Nam, thúc giục quân dân cả nước đồng lòng, chung sức
đứng lên cứu Tổ quốc. Lời kêu gọi không chỉ thể hiện rõ tinh thần, khát vọng
yêu chuộng hòa bình cháy bỏng, sự nhân nhượng tới mức giới hạn của nhân dân ta
với thực dân Pháp, mà còn tỏ rõ ý chí, quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam
sẵn sàng đứng lên đấu tranh bảo vệ nền hòa bình đó: “chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải
đứng lên!”.
Dẫu nhân dân ta buộc phải bước vào cuộc kháng chiến với nhiều
bất lợi, khó khăn chồng chất từ một nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ, kinh tế
kiệt quệ, lại bị bao vây, tiến công bởi nhiều kẻ thù, nhất là thế lực thực dân,
quân đội Pháp hiếu chiến, xâm lược với vũ khí, súng đạn vượt trội hơn ta gấp
nhiều lần, nhưng lại mang theo cả một truyền thống đấu tranh hào hùng của dân
tộc, khí phách quật cường của người Việt Nam. Hào khí “Sát thát” của cha ông đã thắp sáng và thổi bùng
lên bằng tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”, “Thà chết không chịu làm nô lệ”... Đặc biệt, trong cuộc
kháng chiến này, nhân dân ta có được sự lãnh đạo, chỉ đạo bởi một bộ tham mưu
tài giỏi là Đảng ta và một lãnh tụ tài tình là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với một
đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc đúng đắn, phát huy cao độ nghệ thuật chiến
tranh nhân dân của dân tộc lên một tầm cao mới; biết nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành chiến
thắng từng bước, từng phần, tiến đến chiến thắng quyết định bằng chiến dịch
Điện Biên Phủ lịch sử, nhờ đó mà giành lại nền độc lập, tự do, hòa bình cho dân
tộc ta…
Bài học về biết nhân
nhượng và cũng biết đấu tranh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã
soi đường chỉ lối cho Đảng, Nhà nước, nhân dân và các lực lượng vũ trang ta
không chỉ trong các cuộc kháng chiến, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước sau này, mà còn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
ngày nay, nhằm giữ vững và bảo vệ nền hòa bình lâu dài của đất nước.
|
Tại tòa thị chính ở
Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam nhất
định không bao giờ chịu làm nô lệ một lần nữa. (Ảnh: hochiminh.vn)
|
3. Xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc để giữ vững nền hòa bình
của đất nước
Ý chí, quyết tâm: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một
lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!/ Việt Nam độc lập
và thống nhất muôn năm!/ Kháng chiến thắng lợi muôn năm!” trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh 75 năm trước, không chỉ có giá trị trực tiếp thể hiện, quy tụ và phát
huy tinh thần đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình của dân tộc ta
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà còn là kim chỉ nam,
định hướng, chỉ đạo cho toàn thể nhân dân ta suốt 21 năm kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai hòng xâm lược, chia cắt và thôn tính lâu dài
đất nước ta; cũng như các cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ,
biển, đảo của đất nước ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc trong những
năm 1975 đến 1989.
Với khát vọng độc lập,
tự do, thống nhất, hòa bình, vượt lên trên mưa bom, bão đạn, chiến tranh tàn
phá, xâm lược, chia cắt, xâm lấn lãnh thổ và bao vây, cấm vận đối với Tổ quốc
ta của các thế lực thực dân, đế quốc, bè lũ diệt chủng và bành trướng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã luôn thực hành chủ
trương “dựa vào sức mình là chính”, nêu cao tinh thần “tự lực, tự cường”, kháng
chiến kết hợp với kiến quốc, vừa đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, vừa xây dựng đất
nước giàu mạnh; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… làm cho thế và
lực của đất nước ngày càng lớn mạnh, phát triển không ngừng; sự nghiệp kháng
chiến kiến quốc, ngày càng thu được nhiều thắng lợi quan trọng, có ý nghĩa
quyết định.
Trong công cuộc đổi
mới, để giữ vững và bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình lâu dài của đất nước,
tư tưởng “hòa bình” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thắp lên từ ngày đầu phát động nhân
dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã luôn soi đường,
chỉ lối cho Đảng ta, nhân dân và các lực lượng vũ trang ta tập trung vào thực
hành và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Khát vọng hòa bình, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ phá hoại,
xâm lấn, xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do đất nước ta không chỉ
được nuôi dưỡng, hun đúc, phát huy trong mọi tầng lớp nhân dân và các lực lượng
vũ trang ta, mà còn được cụ thể hóa bằng những hành động, việc làm cụ thể trong
xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh và hạnh phúc. Sau 35 năm tiến hành công
cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình
độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần
được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín quốc tế như ngày nay; là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng,
là niềm tin son sắt để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, tiếp tục vững vàng bước trên con đường đổi mới toàn diện,
đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Từ khát vọng hòa bình
được nêu cao từ ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cùng ý chí
và tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường bảo vệ nền độc lập, tự do của đất
nước; tinh thần lao động, sáng tạo không ngừng, đạt được những thành tựu vĩ đại
trong công cuộc đổi mới vừa qua của nhân dân và lực lượng vũ trang ta trong
suốt 75 năm qua, đã tạo tiền đề vật chất và tinh thần vững chắc cho Đại hội
XIII của Đảng xác định quan điểm chỉ đạo: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước,
ý chí tự cường của dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” nhằm thực hiện các mục tiêu phát
triển đất nước theo tầm nhìn và định hướng phát triển đến năm 2025, 2030 và
2045, đưa nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa…
Xây dựng đất nước phồn
vinh, hạnh phúc đã trở thành mệnh lệnh từ mỗi trái tim của con người Việt Nam,
và là con đường đúng đắn nhất để khẳng định, giữ vững, bảo vệ nền hòa bình lâu
dài của đất nước./.
Nguồn:dangcongsan.vn