Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) lần đầu đề ra những đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn của Việt Nam
Trước đổi mới, nhận thức của Đảng về mô hình CNXH ở Việt Nam còn rập khuôn, máy móc, giáo điều theo mô hình của Liên Xô, chưa xuất phát đầy đủ từ hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của thực tiễn đất nước ta. Những khuyết tật, hạn chế của mô hình CNXH này là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước rơi vào tình trạng khó khăn, lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội giai đoạn 1975 - 1986. Chính vì thế, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới, từng bước đổi mới tư duy lý luận về mô hình CNXH, đánh dấu bước chuyển to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mô hình CNXH ở Việt Nam.
Sau 5 năm đưa đường lối đổi mới vào thực tiễn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) đã tổng kết: “Qua thực tiễn, chúng ta có thêm những nhận thức mới và kinh nghiệm quan trọng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm nước ta”(1). Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Đại hội VII thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc thông qua Cương lĩnh năm 1991 trong bối cảnh Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tan rã càng thể hiện bản lĩnh chính trị, trí tuệ của Đảng trước những thách thức hiểm nghèo. Đảng khẳng định: “Sau Đại hội VII, sự tan rã của Liên Xô đã tác động sâu sắc đến nước ta. Đông đảo cán bộ và nhân dân lo lắng, một số người dao động, hoài nghi về tiền đồ của CNXH. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường truyền thống bị đảo lộn. Trong khi đó, Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận. Một số thế lực thù địch đẩy mạnh những hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ. Nước ta một lần nữa lại đứng trước những thử thách hiểm nghèo. Đảng và nhân dân ta kiên trì đường lối đổi mới, ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, vượt qua khó khăn, trở ngại, giành nhiều thắng lợi to lớn”(2). Từ tư duy rập khuôn, máy móc, giáo điều, đến Đại hội VII, tư duy của Đảng có những bước chuyển biến rõ rệt, thể hiện rõ tư duy độc lập, tự chủ. Việc thừa nhận nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường và hội nhập với kinh tế thế giới có thể được xem là một đột phá quan trọng về tư duy của Đảng khi xây dựng mô hình CNXH.
Nhiều nội dung lý luận, thực tiễn được Cương lĩnh đặt ra, trong đó có nội dung quan trọng là xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên, cụm từ “Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa”(3) được đưa vào Văn kiện của Đảng. Đây là một bước phát triển lý luận mang tính đột phá của Đảng, trình bày căn bản quan điểm của Đảng ta về chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân phấn đấu xây dựng.
Đảng xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 6 đặc trưng cơ bản(4), là những đặc trưng bản chất hay mục tiêu cơ bản của CNXH ở Việt Nam mà nhân dân ta xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tất cả những đặc trưng trên đều gắn bó mật thiết với nhau, vừa làm tiền đề, vừa làm cơ sở của nhau. Việc thực hiện thắng lợi nội dung này sẽ tác động tích cực tới việc thực hiện có kết quả các nội dung khác. Quá trình xây dựng đồng thời các nội dung đó sẽ đưa đất nước ta từng bước tiến tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Cùng với việc Cương lĩnh năm 1991 xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, nhận thức của Đảng về CNXH đã tiệm cận tới những nét bản chất của CNXH trong điều kiện Việt Nam. Mô hình CNXH ở Việt Nam lần đầu tiên được nhận diện và khắc phục bước đầu tư duy máy móc, giáo điều, rập khuôn theo mô hình Liên Xô trước đây. Mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ, song các đặc trưng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quan hệ đối nội và đối ngoại đã tạo cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hiện thực hóa thành chế độ xã hội có cơ sở hạ tầng phù hợp với kiến trúc thượng tầng, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đây là lần đầu tiên, trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng đã khái quát được một hệ thống tư tưởng, quan điểm chỉ đạo vừa nhằm mục đích thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến lên, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, đáng chú ý là giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) tiếp tục có nhận thức mới về mô hình CNXH của Việt Nam, với việc lần đầu tiên chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên CNXH. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) với việc định hình ngày càng sáng rõ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tư duy, nhận thức mới về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Đảng tiếp tục được phát triển, thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI (năm 2011). Với Cương lĩnh năm 2011, Đảng có bước phát triển nhận thức về các đặc trưng để phù hợp với thuộc tính, bản chất CNXH Việt Nam. Cương lĩnh năm 2011 xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(5).
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 tiếp thu, kế thừa có chọn lọc các nội dung phản ánh trong 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời điều chỉnh, bổ sung, phát triển để có được 8 đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Nhận thức mới của Đảng được thể hiện ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, Cương lĩnh 2011 bổ sung thêm 2 đặc trưng: (i) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (ii) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đặc trưng bao trùm, tổng quát thể hiện mục tiêu chung của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đặc trưng này là kết quả của sự kết hợp quan điểm Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa cần đạt tới. Cụm từ “dân chủ” được Cương lĩnh đặt lên trước các cụm từ “công bằng”, “văn minh” nhằm làm rõ hơn: Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện bản chất ưu việt, tiến bộ hơn so với dân chủ tư sản, song phải được xây dựng, phát triển thường xuyên và lâu dài, phải coi dân chủ là tiền đề, điều kiện của công bằng, văn minh, khắc phục tư tưởng chỉ coi dân chủ XHCN là động lực, là cái có sẵn sau khi thiết lập chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, ở đặc trưng “do nhân dân làm chủ”, đổi mới trong tư duy của Đảng là nền dân chủ xã hội vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi. Đặc trưng này vừa thể hiện bản chất chính trị ưu việt của CNXH theo quan điểm Mác - Lê-nin, đồng thời tiếp thu quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ: người dân là chủ, dân làm chủ.
Thứ ba, đặc trưng về kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu như Cương lĩnh năm 1991 xác định: có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, thì Cương lĩnh 2011 chỉ rõ: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Điểm mới này vừa thể hiện những thành quả của cả 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, vừa làm rõ hơn thái độ nhất quán của Đảng trong thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khắc phục nhận thức coi nhẹ đối với các thành phần kinh tế thuộc chế độ sở hữu tư nhân.
Thứ tư, đặc trưng về xã hội, con người. Điểm mới của Cương lĩnh năm 2011 thể hiện điểm trọng tâm về con người và quan hệ xã hội giữa người với người, giữa con người với xã hội, “có điều kiện phát triển toàn diện” thay cho “có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Phát triển toàn diện các lĩnh vực đức, trí, thể, mĩ của cá nhân con người, ngăn ngừa khắc phục tư duy máy móc: phát triển cá nhân là tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ với tập thể, cộng đồng, xã hội.
Thứ năm, đặc trưng về dân tộc, quan hệ giữa các tộc người trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Cương lĩnh năm 2011 làm rõ hơn cộng đồng các dân tộc Việt Nam bao gồm cả tộc người, cư dân trong nước và cư dân Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời bổ sung thêm nội dung “tôn trọng” để hoàn thiện nội dung bao trùm nhất của chính sách dân tộc là thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.
Thứ sáu, về quan hệ đối ngoại. Cương lĩnh năm 2011 làm rõ hơn quan hệ hữu nghị, hợp tác không chỉ với nhân dân các nước nói chung, mà là quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới, bao gồm cả các nước, các thể chế chính trị khác nhau trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Những đặc trưng trên là nội dung của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, một thành tựu phát triển sáng tạo lý luận riêng có của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ nghiên cứu tổng kết thực tiễn thường xuyên từ năm 1991, sau 20 năm thực thi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XI đã quyết định giữ nguyên tên của Cương lĩnh năm 1991 (chỉ ghi thêm bổ sung, phát triển năm 2011). Điều này thể hiện tính nhất quán của Đảng khi xác định vai trò to lớn của Cương lĩnh là nền tảng chính trị tư tưởng cho toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước, của toàn xã hội trong quá trình xây dựng CNXH trong suốt thời kỳ quá độ. Theo đó, các đặc trưng thể hiện mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thường xuyên được bổ sung, đổi mới để có những nhận thức mới, nhận thức đúng về các thuộc tính bản chất của CNXH Việt Nam.
Những đặc trưng của mô hình CNXH ở Việt Nam trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 tiếp tục được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(6).
Để hiện thực hóa được mô hình này là cả một sự nghiệp lâu dài, gian khổ, phải đầu tư sức người, sức của to lớn, phải sáng tạo không mệt mỏi, đặc biệt là phải suy nghĩ, tìm tòi lộ trình và bước đi hợp lý, cách làm đúng đắn để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra phù hợp với thực tiễn đất nước. Việc hiện thực hóa các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới.
Trải qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 đến Cương lĩnh năm 2011 và đến nay, có thể thấy, tư duy lý luận của Đảng về mô hình CNXH ngày càng sáng rõ hơn. Đảng xác định được mô hình CNXH phù hợp với đặc điểm, thực tiễn của Việt Nam. Những đặc trưng phản ánh các thuộc tính của CNXH ở Việt Nam ngày càng được nhận thức đúng, rõ ràng, thiết thực hơn trên các phương diện liên quan…, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hiện thực hóa, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời gian tới, cùng với quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, cùng với việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tăng cường tổng kết thực tiễn trong quá trình lãnh đạo xây dựng mô hình CNXH ở Việt Nam, Ðảng ta sẽ tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, góp phần xây dựng được mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn thiện với những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Sự vận động và biến đổi của thế giới hiện nay, của thực tiễn xây dựng CNXH sẽ tiếp tục cung cấp thêm những cứ liệu mới để bổ sung cho nhận thức lý luận của Đảng ta về mô hình CNXH và con đường để thực hiện mô hình đó ở Việt Nam./.
---------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 50
(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 315 - 316, 446
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr. 111
(4) Đó là: Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
(6) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021