Tổng Bí thư Lê Duẩn - Nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và cách mạng Việt Nam
Đồng chí Lê Duẩn - Người chiến sĩ cộng sản kiên
cường, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, người học trò lỗi
lạc, kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại. Trước yêu cầu của thực tiễn cách mạng, đồng chí Lê Duẩn được Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh chọn là người lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp cách mạng ở miền
Nam. Đồng chí Lê Duẩn đã thể hiện là một nhà lãnh đạo, nhà chiến lược luôn chủ
động, sáng tạo, tìm ra chân lý, phương pháp cách mạng thích hợp nhất để đưa
cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, mà đỉnh cao chói lọi là đại
thắng mùa Xuân năm 1975.
Đồng
chí Lê Duẩn sinh ngày 7-4-1907 tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân từ một gia đình lao động có truyền thống yêu
nước, đồng chí Lê Duẩn sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng.
Đồng
chí Lê Duẩn thuộc lớp người đầu tiên, như: Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Võ
Nguyên Giáp… hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vĩ đại, đi theo
và kiên định con đường cách mạng vô sản, tiếp tục sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối cách mạng, “là chiến sĩ thuộc lớp cận vệ đầu
tiên của Đảng, một người học trò lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến,
đồng chí Lê Duẩn đã cống hiến trọng đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, cho tự do, hạnh phúc của nhân dân và cho lý lưởng cộng sản
chủ nghĩa”(1).
Năm
1928, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và năm 1930, trở
thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm
1931, đồng chí là Ủy viên Ban Tuyên huấn của Xứ ủy Bắc Kỳ…; và sau đó, đồng chí
bị địch bắt ở Hải Phòng, bị thực dân Pháp kết án 20 năm tù cầm cố, lần lượt bị
giam giữ ở các nhà tù Hà Nội, Sơn La và Côn Đảo…
Năm
1936, do cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và thắng lợi của Mặt trận nhân
dân ở Pháp, chính quyền thực dân Pháp buộc phải trả tự do cho đồng chí Lê Duẩn.
Ra khỏi nhà tù, đồng chí ra sức hoạt động cách mạng ở các tỉnh miền Trung,
trong phong trào dân chủ…, tập hợp những quần chúng ưu tú chống bọn phản động
thuộc địa, chống nguy cơ phát-xít và chiến tranh… Năm 1937, đồng chí được cử
giữ chức Bí thư Xứ ủy Trung kỳ… Năm 1939, đồng chí được cử vào Thường vụ Trung
ương Đảng và cuối năm đó, cùng đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì Hội
nghị Trung ương 6, quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế
thay Mặt trận Dân chủ Đông Dương, đưa cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kỳ
mới. Tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11-1939), trước những thay đổi quan trọng
của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cho cách mạng Việt Nam, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu. Song lúc này, cách mạng Việt Nam chưa đủ những điều kiện cần thiết để tiến
hành một cuộc khởi nghĩa vũ trang để giành thắng lợi.
Trong
khi đó, những thay đổi trong tình hình thế giới thời kỳ này đã khiến Quốc tế
Cộng sản chủ trương thành lập mặt trận chống chủ nghĩa phát xít Đức - Ý - Nhật
tại Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (năm 1937), cùng những diễn biến ở trong
nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc thành lập Mặt trận Việt Minh, thúc đẩy phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc, nắm bắt được thời cơ “ngàn năm có một”, tiến hành
Tổng khởi nghĩa giành lại độc lập dân tộc và ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn độc
lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấm dứt chế độ
thực dân và phong kiến, đưa Việt Nam tiến lên trên con đường độc lập - tự chủ -
tự cường, phát triển kịp với trào lưu của thế giới…
Với
đồng chí Lê Duẩn, sau Hội nghị Trung ương 6, đến năm 1940, đồng chí lại bị địch
bắt ở Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và bị đày đi Côn Đảo lần thứ hai, cho đến
khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công; và lúc này, đồng chí được Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đón về đất liền, tham
gia ngay vào cuộc kháng chiến ở Nam Bộ (Nam Bộ kháng chiến bắt đầu từ ngày
23-9-1945).
Năm
1946, đồng chí Lê Duẩn ra Hà Nội, làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp
phần cùng Trung ương Đảng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp. Cuối năm 1946, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cử vào lãnh
đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (năm 1951),
đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam. Trong giai đoạn từ
năm 1946 đến năm 1954, trên cương vị Bí thư xứ ủy rồi Bí thư Trung ương Cục
miền Nam, đồng chí Lê Duẩn đã sát cánh cùng với các đồng chí lãnh đạo Trung
ương Cục lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Giai
đoạn năm 1954 - 1957, đồng chí Lê Duẩn ở lại miền Nam, trực tiếp lãnh đạo cuộc
cách mạng. Trong những năm tháng đầy khó khăn, gian khổ ấy, sống trong lòng
nhân dân, được nhân dân che chở, bảo vệ và gọi với cái tên “Anh Ba” thân thương,
đồng chí tập trung củng cố cơ sở cách mạng, chuẩn bị cuộc chiến đấu chống đế
quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.
Năm
1957, Trung ương Đảng cử đồng chí Lê Duẩn lãnh đạo công việc chung của Đảng bên
cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III, đồng chí được bầu làm Bí thư thứ nhất trong Bộ Chính trị Trung ương Đảng
khóa III. Suốt 15 năm trên cương vị này, nhất là sau tháng 9-1969, đồng chí
cùng với Bộ Chính trị, Trung ương Đảng kiên định Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
lãnh đạo cả nước vượt qua khó khăn, gian khổ, từng bước giành những thắng lợi
quan trọng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, tiếp tục xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước…
Đồng
chí Lê Duẩn cùng với Bộ Chính trị lãnh đạo toàn quân và dân ta vượt qua mọi khó
khăn, gian khổ, hy sinh, lập nên những chiến công hiển hách, mà đỉnh cao là
cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết:
“Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã thể hiện ở trình độ cao
phương châm tích cực chủ động và cơ động linh hoạt của Bộ Chính trị và Quân ủy
Trung ương. Bộ thống soái tối cao, đứng đầu là đồng chí Lê Duẩn, đã quyết định
đúng đắn kế hoạch cơ bản và kế hoạch thời cơ, nhanh chóng chuyển sang kế hoạch
thời cơ, từ dự kiến lúc đầu là 2-3 năm, với tinh thần “thần tốc, táo bạo, quyết
thắng”, Chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành được thắng lợi trọn vẹn; trong vòng hai
tháng cuộc tiến công vũ bão của ta làm cho địch không kịp trở tay, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc”(2).
Tổng
Bí thư Lê Duẩn với nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Nghệ Tĩnh (ngày 22-4-1979)_Ảnh:
TTXVN
Cuộc
đời hoạt động cách mạng và những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Duẩn với cách
mạng Việt Nam nói chung, cách mạng miền Nam Việt Nam nói riêng đã để lại những
bài học có giá trị sâu sắc trong giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất, bài học về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tại Nam Bộ đã hình thành nhiều tổ chức yêu nước
và cách mạng, song chưa có sự thống nhất, đôi lúc còn mất tinh thần đoàn kết.
Trước tình thế đó, đồng chí Lê Duẩn đã vận dụng chính sách đại đoàn kết một
cách tài tình, chủ trì hội nghị thực hiện việc hợp nhất hai Xứ ủy Tiền Phong và
Giải Phóng, định hướng cho tổ chức đảng các cấp trong toàn Xứ ủy lãnh đạo kháng
chiến chống Pháp. Ngoài ra, đồng chí cũng vận động các tôn giáo, đảng phái và
đội ngũ trí thức cùng tích cực tham gia kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng
dân tộc.
Với
tư duy và tầm nhìn của một nhà chiến lược lớn, đồng chí Lê Duẩn đã chấp bút
viết tác phẩm “Đề cương cách
mạng miền Nam”, sau đó được Xứ ủy Nam Bộ thảo luận, góp ý và thông
qua vào cuối năm 1965. Đây là văn kiện đầu tiên của Đảng đề ra những tư tưởng
lớn, những chủ trương, chính sách để xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đáp
ứng những yêu cầu khách quan đang đặt ra cho cách mạng miền Nam. Bản đề cương
nêu rõ, thực chất của việc xây dựng và tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất là
“bố trí lực lượng các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các thành phần trong dân
tộc để đánh bại kẻ thù của cách mạng”(3). Về mối quan hệ giữa giai
cấp và dân tộc, Đề cương cách
mạng miền Nam xác định, Mặt trận dân tộc thống nhất phải có tính
giai cấp rõ ràng, nhưng lại phải đặt quyền lợi Tổ quốc lên trên hết. Để tránh
bệnh “tả khuynh”, cô độc, hẹp hòi, phải thu hút tiểu tư sản, trí thức, sinh
viên tham gia, làm động lực cho phong trào cách mạng, đồng thời, phải rất coi
trọng việc phân hóa, lôi cuốn và tranh thủ nhân sĩ, tư sản dân tộc, địa chủ, đi
sâu vận động, đoàn kết các dân tộc, tôn giáo.
Với
tinh thần của bản Đề cương, cùng với sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam,
ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập
do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch với lời kêu gọi: “Tất cả hãy đứng lên,
tất cả hãy đoàn kết lại! Hãy siết chặt hàng ngũ để chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt
trận dân tộc giải phóng đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm”(4).
Với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, cách mạng miền Nam đã
có danh nghĩa chính thức, phương hướng và mục tiêu cách mạng được công khai, rõ
ràng để tập hợp lực lượng, trở thành người đại diện chân chính duy nhất của
nhân dân miền Nam Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh này.
Thứ hai, bài học về trọng dụng nhân tài, đánh giá đúng
và phát huy tối đa vai trò quan trọng của trí thức trong liên minh với giai cấp
công nhân và nông dân.
Trong
lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu nước và cách mạng xã hội
chủ nghĩa, đồng chí Lê Duẩn đã giải quyết thành công nhiều vấn đề lý luận, thực
tiễn của cách mạng Việt Nam, trong đó có chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy vai trò của lực lượng trí thức trong liên minh với giai cấp công nhân
và nông dân.
Đồng
chí Lê Duẩn nhận định, trí thức là người có hiểu biết sâu rộng, không chỉ do
học tập chính quy có văn bằng ở bậc cao, mà còn là những người tự học nâng cao
hiểu biết của mình trong việc làm, trong cuộc sống. Với chủ trương “chiêu hiền,
đãi sĩ”, đồng chí đã tập hợp được đội ngũ trí thức có uy tín lớn, như các luật
sư Phạm Ngọc Thuần, Phạm Văn Bạch, Nguyễn Thành Vĩnh, Nguyễn Hữu Thọ, Diệp Ba,
Trịnh Đình Thảo, các bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Hưởng, kỹ sư Kha Vạn
Cân; các giáo sư Ca Văn Thỉnh, Phạm Thiều, Hoàng Xuân Nhị; nhiều nhà trí thức
tiêu biểu, như Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Trần Bửu Kiếm, Ung
Ngọc Ky, Ngô Tấn Nhơn,... Chính đội ngũ trí thức do cảm phục tài năng, nhân
cách của đồng chí Lê Duẩn nên đã đặt cho đồng chí biệt danh “ngọn đèn 200 nến”
(deux cents bougies). Đội ngũ trí thức này đã có những đóng góp và cống hiến
quan trọng cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Từ
quá trình lãnh đạo cách mạng của Tổng Bí thư Lê Duẩn, cho chúng ta bài học về
trọng dụng nhân tài, đánh giá đúng và phát huy tối đa vai trò của trí thức
trong khối liên minh giai cấp ở nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay. Đại
hội XIII của Đảng đã trình bày hệ thống 5 quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; trong đó nhấn mạnh việc cần “có cơ
chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài”, đồng thời cần “xây dựng đội ngũ
trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước trong tình hình mới”(5).
Thứ ba, bài học về phong cách lãnh đạo, chỉ đạo sáng
tạo, quyết liệt, sâu sát cơ sở, nắm vững tình hình, điều kiện, xác định đúng
mục tiêu, chớp thời cơ để đưa cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Hiểu
sâu sắc về tình hình miền Nam, điều kiện cụ thể của cách mạng miền Nam, đặt
cách mạng miền Nam trong bối cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam và tình hình
thế giới, đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ, mục tiêu của cách mạng và chiến tranh cách
mạng miền Nam là lật đổ chế độ ngụy quyền tay sai, đánh bại chiến tranh xâm
lược thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam. Vì vậy, “chúng ta đã đề
ra yêu cầu đánh lùi đế quốc
Mỹ, làm thất bại chính sách xâm lược và nô dịch của chúng, bằng cách đánh đổ
chính quyền tay sai, thiết lập một chính quyền độc lập và trung lập ở miền Nam”(6);
cách mạng miền Nam đi theo “con
đường của Việt Nam, nghĩa là có khởi nghĩa bộ phận, lập căn cứ địa, có chiến
tranh du kích, rồi tiến lên tổng khởi nghĩa, chủ yếu dùng lực lượng
chính trị có phối hợp với lực lượng vũ trang để giành chính quyền về tay nhân
dân… Cách mạng miền Nam không thể phát triển ngoài quy luật chung ấy”(7);
“đi đôi với xây dựng lực lượng
chính trị và đấu tranh chính trị, phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang”(8);
“phải có thực lực, đồng thời chúng ta cũng phải biết nắm thời cơ, bất ngờ tiến
công địch, khởi nghĩa từng phần, đánh thắng định từng bước, tiến lên đánh thắng
địch trên toàn chiến trường, khởi nghĩa giành toàn bộ chính quyền”(9)...
Hiệp
định Pa-ri năm 1973 tạo ra một bước ngoặt căn bản cho việc chuẩn bị kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đầu năm 1975, khi thời cơ
lịch sử giải phóng miền Nam đã đến rất gần; khi thế và lực giữa ta và địch trên
các chiến trường và sự can thiệp của đế quốc Mỹ cho thấy “đây là thời cơ thuận lợi
nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam”, đồng chí Lê Duẩn đã khẳng
định: “Nhiệm vụ sắp tới của chúng ta là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều
chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc”(10) và chúng ta phải “gấp rút
chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975
hoặc năm 1976”(11).
Sâu
sát thực tiễn tình hình quốc tế và trong nước, nắm vững quy luật của chiến
tranh, chủ động trước diễn tiến thế và lực của ta, của địch trên chiến trường,
khi thực tiễn chiến trường cho phép quân dân ta có thể hoàn thành kế hoạch giải
phóng miền Nam trong năm 1975, với tinh thần “nắm thời cơ”, “quyết giành thắng
lợi, càng nhanh càng tốt”, Bộ Tổng tham mưu nhận định, thời cơ đã rất thuận
lợi, phải tranh thủ giải phóng miền Nam xong trước tháng 4-1975 và các binh
đoàn phải hành quân và tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn (Chiến dịch Hồ Chí
Minh) với tinh thần “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”(12). Thời cơ nối
tiếp thời cơ, tạo bước nhảy vọt để tiến tới giành toàn thắng, đồng chí Lê Duẩn
nhấn mạnh, “bảo đảm một khi đã phát động tiến công thì phải công kích thật mạnh
và liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng”(13), “sự hợp đồng giữa các
hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành
động”. Tiếp đó, ngày 29-4-1975, điện và chỉ thị gấp của đồng chí Lê Duẩn
cho Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã chỉ rõ: “Các anh ra lệnh cho
quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến công với khí thế
hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân
đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống
cự của chúng”(14). Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Lê
Duẩn đã thắng lợi, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.
Đồng
chí Lê Duẩn là học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh; sống một
cuộc đời trung thực và giản dị, thân thiết và chân thành với các đồng chí và
đồng bào; là nhà yêu nước lớn, người cộng sản quốc tế chân chính, trong sáng,
suốt đời noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, chăm lo, củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và với bạn bè quốc tế, với các lực lượng cách mạng và
tiến bộ trên thế giới, trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, tự
chủ, tự cường, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đồng chí là hiện thân của chủ nghĩa yêu
nước chân chính, vì độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc Việt Nam. Kỷ niệm 115
năm Ngày sinh của đồng chí Lê Duẩn (7-4-1907 - 7-4-2022) và 47 năm Ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2022) là dịp để chúng ta
ôn lại, tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc. Sự cống hiến, hy sinh suốt đời của đồng chí cho
Đảng, cho dân tộc, cho chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản là tấm gương sáng
ngời cho các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập và noi theo./.
Nguồn:tapchicongsan.vn