Toàn văn phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 6 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Cổng Thông tin điện tử Đảng ủy Khối các Cơ
quan và Doanh nghiệp tỉnh trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng khai mạc Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá XIII tại Hà Nội, ngày 3/10/2022.
Kính thưa Trung
ương,
Thưa các đồng chí tham
dự Hội nghị,
Thực hiện Chương trình
làm việc toàn khoá, hôm nay Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII của chúng
ta bắt đầu họp Hội nghị lần thứ sáu để thảo luận, cho ý kiến về các báo cáo, đề
án liên quan đến một số vấn đề lớn, rất cơ bản và quan trọng: (1) Về tình hình
kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2022, dự kiến Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2023 và Kế hoạch tài chính - ngân
sách nhà nước 3 năm 2023 - 2025; (2) Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia
thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; (3) Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; (4) Tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn mới; (5) Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính
trị; và một số vấn đề quan trọng khác, chủ yếu là về công tác cán bộ, công tác
nhân sự.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Thay mặt Bộ Chính trị
và Ban Bí thư, tôi xin nhiệt liệt hoan nghênh, chào mừng các đồng chí Uỷ viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các đại biểu tham dự Hội nghị; xin gửi tới các
đồng chí lời chào trân trọng, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng
chí,
Với tinh thần tiếp tục
đổi mới, phát huy dân chủ, trí tuệ của Trung ương trong quá trình xem xét, thảo
luận, quyết định các vấn đề quan trọng của Đảng và Đất nước, tôi xin có một số
ý kiến có tính gợi mở, nêu vấn đề để thảo luận; mong được các đồng chí quan
tâm.
1. Về phát triển kinh
tế - xã hội năm 2022 - 2023
Việc xem xét, đánh giá
tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2022, dự kiến kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2023 được đặt trong bối cảnh,
tình hình thế giới đang có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, chưa
từng có tiền lệ, vượt khỏi khả năng dự báo của các nước và các tổ chức quốc tế,
đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của nước
ta. Cuộc xung đột kéo dài tại U-crai-na, các lệnh trừng phạt của Mỹ và các nước
Phương Tây đối với Nga; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; các biện pháp
phòng, chống dịch Covid-19 tại Trung Quốc; thiên tai, lũ lụt, hạn hán kéo dài
trên diện rộng ở Trung Quốc, các nước EU,... đã làm cho chuỗi cung ứng bị gián
đoạn, giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và nhiều vật tư, nguyên liệu đầu vào
tăng mạnh, lạm phát tăng cao đột biến ở hầu hết các quốc gia và đối tác lớn. Ở
trong nước, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, chúng ta tiếp tục phải đối mặt
với những khó khăn, thách thức mới, nặng nề hơn: Phải tiếp tục xử lý những tồn
tại, yếu kém vốn có của nền kinh tế, đã tích tụ từ lâu và trầm trọng hơn do tác
động của đại dịch Covid-19; kiểm soát dịch Covid-19, phòng, chống dịch cúm A,
sốt xuất huyết, đậu mùa khỉ Châu Phi và các loại dịch bệnh, thiên tai, bão lũ
diễn biến phức tạp, trái quy luật khác; giá cả hàng hoá, vật tư, nguyên liệu
cho sản xuất, nhất là giá xăng dầu, chi phí đầu vào, vận tải tăng cao, ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, ngành, lĩnh
vực và đời sống nhân dân...
Vì vậy, đề nghị Trung
ương nghiên cứu thật kỹ Báo cáo, Tờ trình của Ban cán sự đảng Chính phủ và thực
tế ở bộ, ngành, địa phương nơi công tác, tập trung thảo luận, phân tích kỹ
những đặc điểm nổi bật của năm 2022, làm rõ những kết quả đã đạt được; những
hạn chế, yếu kém còn tồn tại, những khó khăn, vướng mắc phải giải quyết, những
thách thức phải vượt qua; chỉ ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan và bài
học kinh nghiệm; dự báo những khả năng, những tình huống sắp tới, trước hết là
từ nay đến cuối năm 2022 và năm 2023, với tinh thần thật sự công tâm, khách
quan, khoa học, toàn diện. Chú ý đối chiếu với những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề
ra để vừa phòng, chống, kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh, vừa phục hồi, phát
triển kinh tế - xã hội, nhất là ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh phục hồi, phát triển sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và tạo tiền đề cho phát triển nhanh, bền vững
hơn trong những năm sắp tới.
Trên cơ sở nhận định,
đánh giá đúng tình hình, phân tích rõ nguyên nhân, cần xác định trúng những
quan điểm phát triển, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, một số chỉ tiêu cơ
bản, quan trọng và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cho năm 2023. Phải chăng
sắp tới chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn so với
thời cơ, thuận lợi cho phát triển? Ví dụ như: Trên thực tế tình hình thế giới,
khu vực tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhất là
trong lĩnh vực tiền tệ, giá cả, thương mại và đầu tư, tạo áp lực lớn đối với
nền kinh tế nước ta, cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Chúng ta vừa phải
tiếp tục ứng phó với những tác động tiêu cực từ bên ngoài, vừa phải đẩy nhanh
tiến độ xử lý những hạn chế, yếu kém và những khó khăn, thách thức từ nội tại
của nền kinh tế. Áp lực lạm phát, lãi suất, tỉ giá và nguy cơ suy thoái của
kinh tế thế giới vẫn là thách thức lớn nhất đối với nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ
mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế nước ta. Hoạt
động sản xuất, kinh doanh tuy đã phục hồi nhưng còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu
do giá xăng dầu, biến động mạnh giá vật tư đầu vào, chi phí sản xuất tăng cao
và thị trường xuất, nhập khẩu bị thu hẹp. Đầu tư công tiếp tục là điểm nghẽn,
tỉ lệ giải ngân chưa có chuyển biến đáng kể. Thị trường chứng khoán, trái phiếu
doanh nghiệp, bất động sản vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Công tác tư tưởng, bảo đảm
an toàn thông tin, an ninh mạng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Công
tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân vẫn phải đối
mặt với thực tế thiếu nhân lực, thuốc và vật tư y tế. Tình trạng dịch bệnh,
thiên tai, bão lũ tiếp tục diễn biến phức tạp, bất thường. Đời sống của một bộ
phận nhân dân, nhất là công nhân, lao động tự do ở nông thôn, miền núi, biên
giới, hải đảo còn gặp nhiều khó khăn; công tác bảo đảm an sinh xã hội, giảm
nghèo tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới...
2. Về định hướng Quy
hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Thực hiện Luật Quy
hoạch được Quốc hội khoá XIV thông qua vào tháng 11/2017, thời gian qua Chính
phủ đã sát sao chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ,
ngành và địa phương trong cả nước khẩn trương, nghiêm túc nghiên cứu xây dựng
dự thảo Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
(các báo cáo dày khoảng 2.000 trang; tổng cộng có tới 7.000 trang tài liệu) để
trình Quốc hội xem xét, quyết định trong thời gian sắp tới.
Thực hiện Quy chế làm
việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XIII, Hội nghị
của chúng ta cần xem xét, cho ý kiến chỉ đạo về định hướng quy hoạch tổng thể
quốc gia do Ban cán sự đảng Chính phủ trình để chỉ đạo Chính phủ tiếp thu ý
kiến của Trung ương, hoàn thiện Đề án Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021
- 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trình Quốc hội xem xét, quyết định theo thẩm
quyền. Nội dung của dự thảo Quy hoạch tổng thể quốc gia trình Quốc hội xác định
định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực và việc phân bố, tổ chức không gian
các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường có tầm
quan trọng cấp quốc gia, quốc tế và có tính liên vùng mang tính chiến lược trên
toàn lãnh thổ quốc gia, bao gồm đất liền, các đảo, quần đảo, vùng biển, vùng
trời của Tổ quốc. Nội dung của Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia trình
Trung ương lần này bao gồm những vấn đề thuộc về chủ trương, chính sách chỉ đạo
việc xây dựng, hoàn thiện các quy hoạch phát triển nói chung và Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội quốc gia nói riêng; tập trung nhận định, đánh
giá tình hình phát triển và tổ chức không gian phát triển của đất nước thời kỳ
2011 - 2020; các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo việc lập và tổ chức thực hiện Quy
hoạch tổng thể quốc gia; những mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu cần phấn đấu để đạt
được; và các định hướng lớn về phát triển và phân bố không gian phát triển các
ngành, lĩnh vực chủ yếu; định hướng tổ chức không gian theo vùng, lãnh thổ;
định hướng phát triển hệ thống đô thị, nông thôn; định hướng phát triển hệ
thống cửa khẩu biên giới đất liền quốc gia,...
Đây là công việc lần
đầu tiên chúng ta làm, rất mới, rất khó, chưa có kinh nghiệm, song rất quan
trọng và cấp thiết, các bộ, các ngành, các địa phương trong cả nước hiện đang
rất mong đợi. Vì vậy, đề nghị các đồng chí cần tập trung nghiên cứu thật kỹ các
tài liệu, thảo luận thật sôi nổi, sâu sắc những vấn đề nêu trong Tờ trình của
Ban cán sự đảng Chính phủ, tạo sự thống nhất cao đối với dự thảo Kết luận của
Trung ương về Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, góp
phần thiết thực cho việc lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả việc xây dựng, ban hành
và tổ chức thực hiện thật tốt Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030,
tầm nhìn đến năm 2050 nói riêng và các quy hoạch phát triển của các bộ, ngành,
địa phương trong cả nước nói chung.
3. Về tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Chúng ta đều đã biết,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một chủ trương lớn, là nhiệm vụ chiến
lược, nhiệm vụ trung tâm, quan trọng hàng đầu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đề ra
nhiệm vụ: "Đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn
đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa" trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong hơn 35 năm đổi
mới, nhất là trong 10 năm vừa qua (2011 - 2021), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta đã nỗ lực phấn đấu, không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đạt
được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy
mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích
cực với tỉ trọng đóng góp của công nghiệp và dịch vụ vào GDP đạt khoảng 72,7%
năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung
bình.
Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, chúng ta vẫn chưa thực hiện được mục tiêu trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Các đột phá chiến lược chưa có sự
bứt phá. Tăng trưởng kinh tế không đạt được mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ
có xu hướng giảm dần theo chu kỳ 10 năm. Nội lực của nền kinh tế còn yếu; năng
lực độc lập, tự chủ thấp, còn phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài. Năng suất lao động thấp và chậm được cải thiện. Khu vực kinh tế tư nhân
trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế. Quá trình đô
thị hoá cũng chưa đồng bộ, chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và xây dựng nông thôn mới. Các vấn đề về phát triển văn hoá, xã
hội, con người, bảo vệ môi trường cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đồng bộ
với phát triển kinh tế,...
Chính vì vậy, Đại hội
XIII của Đảng đã xác định: Trong bối cảnh mới, để thực hiện được mục tiêu đến
năm 2030 Việt Nam "Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao", đến năm 2045 "Trở thành nước phát triển, thu
nhập cao", cần phải "Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên
nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo".
Để quán triệt và triển
khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thời gian qua, Bộ
Chính trị đã ráo riết chỉ đạo Ban Kinh tế Trung ương chủ trì cùng với các Ban,
Bộ, Ngành Trung ương và các địa phương tổng kết lý luận và thực tiễn, nghiên
cứu xây dựng Đề án trình Trung ương tại Hội nghị lần này xem xét, ban hành Nghị
quyết về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045. Đây là một công việc rất cơ bản, phạm vi rất rộng lớn,
tính chất hết sức phức tạp, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
nhanh và bền vững của đất nước, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, hiện vẫn còn những vấn đề chưa thật rõ và không ít những ý kiến khác
nhau, nhất là trong bối cảnh, tình hình trong nước và thế giới đã, đang và sẽ
có nhiều thay đổi dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư.
Đề nghị các đồng chí
Trung ương và các đồng chí tham dự hội nghị xuất phát từ thực tiễn, thảo luận,
đánh giá một cách khách quan, khoa học về việc xây dựng, ban hành và tổ chức
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời gian qua, chỉ rõ
những kết quả, thành tích đã đạt được; đồng thời phân tích sâu sắc những hạn
chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, bám sát Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng và thực tế đất nước, xu thế phát triển trên thế giới, tập trung thảo
luận, làm rõ, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp lớn cần được triển khai
thực hiện để tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng
đã đề ra đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
4. Về tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn mới
Như chúng ta đều biết,
Chính quyền Nhà nước là vấn đề cốt tử của mọi cuộc cách mạng. Khi chưa có chính
quyền, Đảng Cộng sản phải lãnh đạo giành cho được chính quyền về tay nhân dân.
Khi đã có chính quyền thì phải luôn luôn củng cố, giữ vững và tăng cường sức
mạnh của chính quyền về mọi mặt. Đây là vấn đề hết sức nghiêm túc và hệ trọng.
Từ khi Nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam) ra đời vào năm 1945 đến nay, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới vừa
qua, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp thu có chọn lọc những giá
trị phổ quát của nhân loại về Nhà nước pháp quyền để xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phù hợp
với điều kiện cụ thể của đất nước, và đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu rất
quan trọng. Cụ thể là: Việc quản lý nhà nước bằng pháp luật được chú trọng và
tăng cường; hệ thống pháp luật từng bước được xây dựng, bổ sung, sửa đổi và
hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
khẳng định, kế thừa những nội dung đúng đắn, tiến bộ của các bản Hiến pháp
trước đó, đồng thời có những sửa đổi và bổ sung quan trọng, hoàn thiện thêm cơ
cấu bộ máy nhà nước, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ và hệ
thống các cơ quan tư pháp, phát huy ngày càng đầy đủ cả ba quyền: Lập pháp,
Hành pháp và Tư pháp theo đúng quy định của Hiến pháp: Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan
nhà nước.
Dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng được nhận thức đúng đắn hơn và phát huy mạnh mẽ hơn, coi đây là
cốt lõi của vấn đề đổi mới hệ thống chính trị. Về kinh tế, đó là quyền được tự
do sản xuất kinh doanh ở tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm; quyền sở
hữu hợp pháp tài sản và quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ; mọi tiềm năng,
nhiệt tình, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân được phát huy... Về chính trị,
đó là quyền dân chủ trong bầu cử, ứng cử, đề cử; trong thảo luận, đóng góp ý
kiến xây dựng các dự án luật; là sinh hoạt dân chủ trong các cơ quan dân cử,
các đoàn thể xã hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng; là quyền con
người, quyền công dân ngày càng được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn...
Tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước được đổi mới và có những tiến bộ đáng kể. Quốc hội hoạt
động ngày càng có chất lượng cao hơn, dân chủ hơn, thiết thực hơn. Tổ chức,
hoạt động và điều hành của Chính phủ từng bước được đổi mới, tập trung vào công
việc quản lý vĩ mô, đồng thời chỉ đạo tổ chức thực hiện tương đối sâu sát,
nhanh nhạy. Hoạt động của Viện kiểm sát và Toà án các cấp cũng có những bước
tiến mới. Tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội có nhiều đổi mới, ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò trong
đời sống xã hội. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có nhiều đổi
mới, từng bước được xác định rõ và cụ thể hơn, có chất lượng và hiệu quả cao
hơn, tạo điều kiện cho việc kiện toàn, phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của
Nhà nước.
Tuy nhiên, bước vào
giai đoạn phát triển mới, trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của
Đảng đã khẳng định sự cần thiết phải "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam"; coi đây "là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị" ở nước ta; đồng thời, đề ra
nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó có xác định những
nhiệm vụ trọng tâm đến năm 2030, tập trung ưu tiên xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật và cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Đề án, Tờ trình và dự
thảo Nghị quyết trình Hội nghị Trung ương lần này đã được Ban Chỉ đạo xây dựng
Đề án chuẩn bị rất công phu, nghiêm túc trên cơ sở 27 báo cáo chuyên đề tổng
kết toàn diện cả về lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua của các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; ý
kiến tham gia tại 18 cuộc hội thảo, hội nghị, toạ đàm, 3 Hội nghị lấy ý kiến
các tỉnh uỷ, thành uỷ và Báo cáo tư vấn của Hội đồng Lý luận Trung ương.
Đây là vấn đề rất cơ
bản, rộng lớn, quan trọng, nhưng cũng vô cùng phức tạp, nhạy cảm, hệ trọng,
liên quan đến sự tồn vong của chế độ, sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn. Đề nghị các đồng chí Trung ương và các đồng chí tham dự hội nghị nghiên
cứu thật kỹ các tài liệu, thảo luận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về
những kết quả, thành tựu đã đạt được; đồng thời phân tích sâu sắc những hạn
chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, bám sát Cương lĩnh của Đảng,
Hiến pháp của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực tế đất nước,
tập trung thảo luận làm rõ, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu và những nhiệm vụ và giải pháp lớn cần
được quán triệt và triển khai thực hiện để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa
trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do Đảng Cộng sản lãnh đạo; chú ý đến việc hoàn thiện đồng bộ, đầy đủ hệ thống
pháp luật, vận hành thông suốt, thống nhất bộ máy nhà nước và các lĩnh vực của
đời sống xã hội; phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong thực hiện
quyền lực nhà nước; tăng cường kiểm soát quyền lực; đẩy mạnh cải cách hành
chính, cải cách tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tinh
gọn, liêm chính; phòng, chống có hiệu quả tham nhũng, tiêu cực.
5. Về tổng kết 15 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
Thực hiện Chương trình
làm việc toàn khoá và sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thời gian qua
Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá X
về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị đã triển khai tổng kết Nghị quyết một cách nghiêm túc, bài bản,
công phu, khoa học, có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ, với tinh thần trách
nhiệm cao của các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương, các đồng chí lão
thành cách mạng, các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Báo cáo tổng
kết trình Trung ương tại Hội nghị lần này đã đánh giá một cách khách quan, toàn
diện tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá X, chỉ ra những kết quả,
thành tựu to lớn, toàn diện, rất ấn tượng đã đạt được; đồng thời, cũng thẳng
thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và phân tích rõ nguyên nhân. Từ
đó, đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và kiến nghị Trung
ương xem xét ban hành Nghị quyết mới để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới,
hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy có hiệu quả sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự
trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển
mới.
Đây là một nội dung
rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh toàn diện mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Đề nghị các đồng
chí tập trung nghiên cứu, thảo luận, tạo sự thống nhất cao về đánh giá tình
hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá X và những quan điểm, mục tiêu và
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được đề ra để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai
đoạn mới. Chú ý đến những nhiệm vụ, giải pháp mới, có tính đột phá, khả thi cao
nhằm tiếp tục phát huy thật tốt những kết quả, thành tựu và bài học kinh nghiệm
thành công đã đạt được; khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém còn tồn tại
và nguyên nhân được rút ra trong quá trình tổng kết để sớm khắc phục những hạn
chế, bất cập còn tồn tại như: Nhận thức lý luận về phương thức lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng còn có những vấn đề chưa thật rõ. Việc đổi mới, nâng cao chất
lượng xây dựng, ban hành các nghị quyết của Đảng, thể chế hoá các chủ trương,
đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách của Nhà nước chuyển biến chưa
thật sự rõ nét; vẫn còn tình trạng chất lượng một số văn bản chưa sát thực tế;
tổ chức thực hiện nghị quyết chưa nghiêm; cách thức tổ chức quán triệt nghị
quyết còn ít đổi mới. Việc hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của Đảng
và hệ thống chính trị; phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp giữa các cấp,
các ngành; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của
các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị còn chậm và lúng túng, nhất là
trong việc xử lý tình trạng không rõ ràng về quyền hạn, trách nhiệm giữa các cơ
quan của Đảng và Nhà nước. Một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thực hiện nghiêm
nguyên tắc của Đảng trong công tác lãnh đạo, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình; vẫn còn tình trạng bao biện, áp đặt, làm thay hoặc né
tránh, sợ trách nhiệm, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Công tác tổ chức,
cán bộ và thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên có mặt còn hạn chế;
chưa thật sự bảo đảm tính dân chủ, minh bạch, thiếu cơ chế phát hiện, bồi dưỡng
và sử dụng, trọng dụng nhân tài; chưa kiểm soát tốt được quyền lực trong công
tác cán bộ; một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp còn thiếu gương mẫu, ảnh hưởng xấu đến uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng tuy đã có nhiều đổi mới và có đột phá
trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua, nhưng nhìn chung vẫn
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; chất lượng, hiệu quả
chưa đều ở các cấp, việc tự kiểm tra, giám sát còn nhiều hạn chế...
Thưa các đồng
chí,
Có thể nói, Hội nghị
Trung ương lần này là Hội nghị để chúng ta tiếp tục triển khai việc thực hiện
nhiệm vụ quán triệt, thực hiện các nội dung, vấn đề lớn, cốt yếu của Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng. Hầu hết các vấn đề chúng ta cần bàn và quyết định đều
rất cơ bản, quan trọng, nhưng cũng rất khó, phức tạp và nhạy cảm. Nhiều vấn đề
đã có chủ trương, chính sách và đã được tiến hành từ lâu nhưng đến nay, bên
cạnh những kết quả đạt được vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, cần tiếp tục
được thực hiện ở tầm mức mới với những quyết tâm mới, quyết sách mới, nhằm đáp
ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới. Vì vậy, đề nghị Trung ương và các
đồng chí tham dự Hội nghị phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, thật sự dân
chủ và đổi mới, tập trung nghiên cứu, thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến có chất
lượng, sâu sắc để hoàn thiện các báo cáo, đề án và xem xét, quyết định vào cuối
kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi
xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XIII. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp, và nhất định phải thành
công tốt đẹp!
Xin trân trọng cảm ơn
các đồng chí!
Nguồn: Vietnamnet