1. Bối cảnh quốc tế
Tình hình dịch
bệnh Covid-19 trên toàn cầu mặc dù vẫn
được kiểm soát nhưng số ca mắc
mới tăng cao trở lợi tại một số quốc gia. Tính đến
sáng 30/9/2022, thế giới lần lượt ghi nhận tổng số 622.152.113
ca nhiễm và 6.546.318 trường hợp tử vong vì Covid-19. Xét về khu vực, châu Âu
đứng đầu thế giới về số ca mắc Covid-19 mới, tiếp đó
là châu Á. Hiện nay, Mỹ vẫn là nước chịu tác động nặng nề
nhất bởi dịch bệnh trong khu vực và trên thế giới. Xung đột Nga - Ukraine có những diễn biến
mới. Quan hệ Mỹ - Trung Quốc ngày càng căng
thẳng. Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) muốn tìm kiếm
những biện pháp cấm vận chưa từng được áp dụng, từ đó giới hạn một số hoạt động
thương mại và đầu tư với Trung Quốc trong các ngành công nghệ nhạy cảm như chíp
máy tính và thiết bị viễn thông.
Triển vọng tăng trưởng
kinh tế thế giới
năm 2022 ngày càng kém lạc quan, bắt nguồn
từ tác động tiêu cực của xung đột Nga - Ukraine làm ảnh
hưởng mạnh đến kinh tế châu Âu; chiến lược
"zero-covid" không khoan nhượng làm chậm lại các hoạt động kinh tế
của Trung Quốc, đồng thời làm nghẽn chuỗi cung ứng
toàn cầu; áp lực lạm phát tăng cao dẫn
đến việc thắt chặt chính sách tiền tệ ở nhiều
quốc gia làm ảnh hưởng đến nhiều nền kinh tế lớn như: Mỹ, Nhật Bản. Tháng
7/2022, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã
điều chỉnh hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 từ mức 3,6% (theo
báo cáo hồi tháng 4/2022) xuống 2,9%. Trong đó, tăng
trưởng kinh tế ở hầu hết các nền kinh tế lớn đều
chậm lại.
Kinh tế Mỹ tăng trưởng
chậm lại,
dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Mỹ năm 2022 dự báo đạt 2,3%, điều
chỉnh giảm 1,4 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2022 tương ứng
của IMF. Động lực tăng trưởng
từ tiêu dùng tư nhân ngày càng yếu, một phần do sức mua của
hộ gia đình giảm và phần do tác động của chính sách tiền tệ thắt
chặt. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhận định nền kinh tế Mỹ suy giảm sau
hai quý đầu năm 2022 GDP là do bùng nổ trở lại của biến
thể Omicron Covid-19 dẫn
đến những hạn chế và gián đoạn, khiến tiêu dùng
giảm trong nửa đầu năm. Đầu tư trong
quý II giảm 13,2%. Chi tiêu của Chính phủ giảm do một số chương trình liên bang giảm dần.
Lạm phát vẫn ở mức cao, 83% trong tháng 8/2022 sau khi đạt đỉnh
9,1% trong tháng 6/2022, chủ yếu do giá thực phẩm và năng lượng cao.
Kinh tế châu Âu đứng trước
những thách thức chưa từng có trong bối cảnh lạm phát leo
thang do ảnh hưởng từ cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine. Nguy cơ
thiếu khí đốt và những hạn chế trong chuỗi cung ứng đã
đẩy các nhà máy tại châu Âu vào tình trạng
thiếu nguyên liệu đầu vào sản xuất. Cùng với đó, hàng tồn
kho của các nhà sản xuất cũng đang ở mức cao kỷ
lục, cho thấy hoạt động sản xuất sẽ không sớm tăng trưởng trở lại. Áp lực lạm
phát gia tăng ở hầu hết các quốc
gia trong khu vực.
Kinh tế Trung Quốc đang tăng
trưởng tốt hơn dự báo nhưng kém vững chắc. Kinh tế
Trung Quốc đã khởi sắc trong quý III sau
khi chững lại vào quý II. Tuy nhiên, đà phục hồi
vẫn bị cản trở bởi các
đợt bùng phát dịch Covid-19 lẻ tẻ ở những thành phố
trên khắp đất nước, thị trường nhà ở suy yếu và nhu cầu tại các thị trường nhập
khẩu sụt giảm, lạm phát tăng cao, các ngân hàng Trung ương mạnh tay
nâng lãi suất điều hành và
những biến động trên thị trường ngoại hối. IMF nhận định, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục suy giảm mạnh dù có sự phục hồi sau các đợt
phong tỏa vào nửa cuối năm 2022, theo đó tăng trưởng GDP của quốc gia này được
dự báo đạt 3,3% năm 2022. ADB dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc
năm 2022 đạt 3,3%, điểu chỉnh giảm 1,7 điểm phần
trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 4/2022. Đây
là lần đầu tiên trong
hơn 3 thập kỷ, dự báo tăng trưởng của Trung Quốc tăng chậm
hơn dự báo tăng trưởng chung của các nước châu Á đang phát
triển.
Thương mại toàn cầu
phục hồi chậm nhưng vẫn tích cực. Thương mại
toàn cầu trong những tháng cuối năm
2022 chịu tác động trái chiều bởi áp lực từ cuộc
xung đột Nga - Ukraine và sự tăng mạnh do Trung Quốc khi dỡ bỏ các lệnh phong
tỏa Covid-19. Lạm phát trên toàn cầu
vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao do tỷ lệ lạm phát
tăng mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới, giá xăng dầu
tăng cao làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng về
giá lương thực, thực phẩm và chi phí sinh hoạt của các hộ gia đình
và doanh nghiệp.
2. Tình hình kinh
tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2022
Trái ngược với bức
tranh kinh tế ảm đạm tại
nhiều khu vực trên thế giới, kinh tế Việt
Nam trong 9 tháng đầu năm 2022 khởi sắc
ở hầu hết các lĩnh vực. Hoạt động sản
xuất kinh doanh trong quý III/2022 tăng trưởng
mạnh mẽ, đặc biệt so với cùng kỳ năm
trước, khi nhiều địa phương trên cả nước thực hiện giãn
cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh, nhất là tại
các tỉnh kinh tế trọng điểm phía Nam. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2022
ước tính tăng khá cao ở mức 13,67%. Tính chung 9 tháng đầu năm 2022, GDP đã
tăng 8,83% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9 tháng đầu năm
trong giai đoạn 2011 - 2022. Các hoạt động sản xuất kinh doanh dần
lấy lại đà tăng trưởng, chính sách phục hồi và phát triển
kinh tế - xã họi của Chính phủ đã phát huy hiệu quả. Trong mức tăng chung của
toàn nền kinh tế, khu vực dịch vụ đóng góp nhiều nhất (54,2%), tiếp theo là khu
vực công nghiệp và xây dựng (41,8%), khu vực nông, lâm, thủy sản đóng góp 4%.
Một số ngành có mức tăng
trưởng cao, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá
trị tăng thêm toàn nền kinh tế như:
công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của
toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 10,69%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của cùng kỳ
các năm 2011, 2017 và 201 8, đóng góp 2,74 điểm phần trăm;
ngành xây dựng tăng 8,55% đóng góp 0,59 điểm phần trăn; ngành bán buôn, bán lẻ
tăng 10,24% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1 điểm phần trăm; ngành vận tỉa
kho bãi tăng 14,2% đóng góp 0,83 điểm phần trăm; ngành du lịch lưu trú và ăn
uống tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 41,7%, đóng góp 0,81
điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm tăng 9,05%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm.
Thu ngân sách đạt khá. Thu ngân
sách Nhà nước 9 tháng đầu năm 2022 ước tăng 22% so với
cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 5,4% so với cùng kỳ năm
2021, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp
thời cho các đối tượng theo quy định.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tiếp tục tăng cao. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, số vốn FDI thực
hiện trong 9 tháng đầu năm 2022 ước tính đạt 15,4 tỷ USD, tăng 16,2% so với
cùng kỳ năm 2021. Vốn đăng ký điều chỉnh và vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần
đều tăng so với cùng kỳ năm trước (tương ứng tăng 29,9% và 1,9%). Mặc dù vậy,
thu hút vốn FDI vẫn chưa phục hồi
hoàn toàn sau giai đoạn suy giảm do dịch Covid-19. Tổng vốn FDI thu hút vào Việt Nam đạt hơn 18,75 tỷ
USD, bằng
84,7% so với cùng kỳ
năm trước.Trong
đó, vốn đăng ký cấp mới chỉ đạt hơn 7,1 tỷ USD, giảm 43% so với cùng kỳ năm
trước.
Giải ngân vốn
đâu tư nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) vẫn ở mức thấp. Nếu xét về
số tuyệt đối, vốn đầu tư từ NSNN cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái
và tăng khoảng 16%, tuy nhiên tỷ lệ giải ngân đầu tư công chưa đạt như kỳ vọng.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, ước thanh toán tính đến hết tháng 9/2022, các
bộ, ngành, địa phương thực hiện giải ngân vốn đầu tư từ nguồn NSNN đạt 43,93%
kế hoạch, đạt 49,95% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Trong đó, có 08 bộ và
23 địa phương ước tỷ lệ giải ngân đạt trên 60%; tuy nhiên, vẫn còn 11 bộ, cơ quan
Trung ương và 01 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới 20%.
Cán cân thương mại duy trì xuất siêu trong 9
tháng đầu năm.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước
đạt 573,8 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng trong tháng
9/2022, cán cân thương mại hàng hóa xuất
siêu 1,14 tỷ USD. Các mặt hàng tiếp tục duy trì kim ngạch xuất khẩu tốt trong
những tháng đầu năm 2022 là các mặt hàng điện thoại và linh kiện; điện tử, máy
tính và linh kiện, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, dệt, may, giày dép,
trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng, dệt may là những ngành có tốc độ tăng
mạnh so với cùng kỳ. Một số mặt hàng nhập khẩu tăng mạnh, như; sắt thép, điện
tử, máy tính và linh kiện.
Tiêu dùng tiếp tục xu hướng phục hồi mạnh mẽ. Tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong quý III/2022
đạt trên 1.450 nghìn tỷ đồng, đẩy mức tăng trưởng tổng mức trong 9 tháng đầu
năm đạt 21% (nếu loại trừ yếu tố giá còn 16,8%, cao
hơn nhiều so với mức giảm 5% của năm 2021). Tăng
trưởng tổng mức tiếp tục tạo kỷ lục sau khi chịu ảnh hưởng nặng của dịch bệnh
Covid-19. Các hoạt động du lịch, dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng trưởng mạnh.
Ngoài ra, giá xăng, dầu có xu hướng giảm sâu góp phần kiểm soát tốt giá cả hàng
hóa, kích thích tiêu dùng.
Lạm phát vẫn trong mức kiểm soát. Bình quân tháng đầu
năm 2022, chỉ số CPI tăng 2,73%, lạm phát cơ bản tăng 1,88% so
cùng kỳ năm 2021. Biến động giá tiêu dùng nhìn chung tương đối ổn định trong
tháng 9 và 9 tháng đầu năm. Bên cạnh những yếu tố khách quan, công
tác điều hành giá đạt được kết quả tích cực đến thời
điểm này là do sự chỉ đạo quyết liệt của Chính
phủ, các bộ, ban, ngành và cơ quan hữu quan. Chính sách tài khóa, tiền tệ chủ
động, linh hoạt, cùng với các chính sách của các bộ, ngành được triển khai tích
cực, nhanh chóng, hiệu quả đã góp phần ổn
định tỷ giá, đảm bảo cán cân thương mại, kiểm
soát được tín dụng,
thanh khoản của nền kinh tế
góp phần kiểm soát lạm phát chung. Mặc dù tình hình còn nhiều
khó khăn, nhưng công tác điều hành giá, kiểm soát lạm phát cơ bản đạt được mục
tiêu đề ra.
Việc lạm phát của
Việt Nam đang theo xu hướng ổn định hơn so với nhiều
quốc gia trên thế giới, ngoài lý do do chủ động điều
hành của Chính phủ, còn là do tỷ trọng các mặt hàng trong rổ hàng hóa dùng để
tính CPI giữa các
quốc gia là tương đối khác biệt. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, chi
tiêu cho các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng chủ
yếu, trong khi các khoản chi cho nhà ở, điện nước, khí đốt, giao thông, văn hóa
không cao. Nhóm hàng có ảnh hưởng lớn đến lạm phát của Việt Nam là lương thực,
thực phẩm hiện có nguồn cung dồi dào, do vậy, lạm phát của Việt Nam vẫn đang được kiểm soát tốt. Trong khi đó, ảnh
hưởng từ xung đột Nga – Ukraine chủ yếu ảnh hưởng đến giá nhiên liệu, khí đốt.
Các nước phát triển có lạm phát cao hiện nay như Mỹ, khu vực EU… đều là các
quốc gia có tỷ trọng nhóm hàng liên quan đến nguyên liệu, khí đốt rất lớn nên
áp lực lạm phát
do tác động của xung đột Nga – Ukraine đáng kể hơn nhiều
so với Việt Nam
Lãi suất đồng
VND chịu lực gia tăng. Việc Cục dự
trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng mạnh lãi suất đã tác
động lên mặt bằng lãi suất của Việt Nam. Lãi suất đồng USD tăng cao
(từ ngày 21/9/2022, Fed đã tăng lãi suất lên mức 3,25 - 3,5%) dẫn đến chênh
lệch lãi suất giữa đóng VND và đồng USD thu hẹp mạnh, thậm chí có nguy cơ
chuyển trạng thái chênh lệch âm. Điều này gây bất lợi đối với đổng VND, gây
nguy cơ dòng vốn nước ngoài rời khỏi Việt Nam. Do đó, để đảm bảo duy trì trạng
thái chênh lệch hợp lý giữa lãi suất đồng VND và lãi suất đóng USD, Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) đã phải liên tục sử dụng các biện pháp "bơm,
hút" tiền đan xen nhằm
điều tiết cung tiền để vừa đảm
bảo duy trì lãi suất đồng VND ở mức hợp lý nhằm hỗ trợ cho tăng trưởng, vừa giữ chân dòng vốn quốc
tế. Thực lãi suất liên ngân hàng đã tăng khá cao, có
thời điểm, lãi suất qua đêm lên đến 7%/năm (tuần
giữa tháng 9). Trên thị trường liên ngân hàng đến cuối tháng 8/2022, lãi suất
cho vay qua đêm đối với tiên VND đã tăng lên 4% và chênh lệch lãi suất VND và
USD ở mức 2 điểm %; lãi suất phát hành tín phiếu, NHNN kỳ hạn 14 ngày tăng từ mức 26%/năm
vào đầu tháng 8/2022 lên 4,0%/năm
vào cuối tháng; sau đó lãi suất qua
đêm có thời điểm tăng lên mức kỷ lục 7,5%/năm
(trong tuần giữa tháng 9/2022) kể từ năm 2012.
Ngay sau động thái
tăng mạnh lãi suất lần thứ
5 của Fed (ngày
21/9/2022), NHNN đã điều chỉnh
tăng các mức lãi suất điều hành: lãi suất
tái cấp vốn
tăng từ 4%/năm lên 5%/năm; lãi suất
tái chiết khấu từ 2,5%/năm lên 3,5%/năm; lãi suất cho vay qua
đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với tổ chức tín
dụng từ 5%/năm lên 6%/năm. Trong kế hoạch tăng lãi suất của Fed, dự kiến Fed sẽ
tiếp tục tăng lãi suất lên khoảng 4% vào cuối năm 2022. Điều
này tiếp tục gây áp lực lên mặt bằng lãi suất của Việt Nam. Lãi suất khó có thể duy trì trạng
thái thấp kéo dài, song nếu giả thiết về việc Fed dần
tới giới hạn tăng lãi suất thì đó sẽ là dư địa không nhỏ để NHNN ổn định mặt bằng lãi suất trong tương lai.
Áp lực lên tỷ giá USD/VND đang tăng
lên.
Trong 9 tháng năm 2022, tỷ giá USD/VND trong
xu hướng gia tăng. Diễn biến này gắn liền với việc
chỉ số đồng USD tiếp
tục tăng giá và đồng Nhân dân
tệ mất giá trong 9 tháng năm 2022. Ngày 07/9/2022, số
USD đã lên mức 110,22 cuối ngày, là mức cao nhất trong 20 năm qua.
Điều này một lần nữa áp đặt áp
lực lên tỷ giá đồng VND. Theo đó, NHNN đã phải thực hiện “bơm – hút”
tiền Iiên lãi suất phát hành tín phiếu, NHNN kỳ hạn 14 ngày tăng từ mức 26%/năm
vào đầu tháng 8/2022 lên 4,0%/năm
vào cuối tháng; sau đó lãi suất qua
đêm có thời điểm tăng lên mức kỷ lục 7,5%/năm
(trong tuần giữa tháng 9/2022) kể từ năm 2012.
Ngay sau động thái
tăng mạnh lãi suất lần thứ
5 của Fed (ngày
21/9/2022), NHNN đã điều chỉnh
tăng các mức lãi suất điều hành: lãi suất
tái cấp vốn
tăng từ 4%/năm lên 5%/năm; lãi suất tái chiết
khấu từ 2,5%/năm lên 3,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong
thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với tổ chức tín
dụng từ 5%/năm lên 6%/năm. Trong kế hoạch tăng lãi suất của Fed, dự kiến Fed sẽ
tiếp tục tăng lãi suất lên khoảng 4% vào cuối năm 2022. Điều
này tiếp tục gây áp lực lên mặt bằng lãi suất của Việt Nam. Lãi suất khó có thể duy trì trạng
thái thấp kéo dài, song nếu giả thiết về việc Fed dần
tới giới hạn tăng lãi suất thì đó sẽ là dư địa không nhỏ để NHNN ổn định mặt bằng lãi suất trong tương lai.
Áp lực lên tỷ giá USD/VND đang tăng
lên.
Trong 9 tháng năm 2022, tỷ giá USD/VND trong
xu hướng gia tăng. Diễn biến này gắn liền với việc
chỉ số đồng USD tiếp
tục tăng giá và đồng Nhân dân
tệ mất giá trong 9 tháng năm 2022. Ngày 07/9/2022, số
USD đã lên mức 110,22 cuối ngày, là mức cao nhất trong 20 năm qua.
Điều này một lần nữa áp đặt áp
lực lên tỷ giá đồng VND. Theo đó, NHNN đã phải thực hiện “bơm – hút”
tiền Iiên tục thông qua mua bán ngoại tệ và phát hành tín phiếu quy mô lớn. NHNN đang cố gắng tìm
điểm
cân bằng mới để tiếp tục đối phó với các diễn biến mới từ thị
trường tiền tệ Mỹ. DO đó, mặc dù tỷ giá USD/VND đã tăng 2,7% trong 9 tháng đầu
năm 2022 nhưng vẫn là đồng tiền mất giá ít nhất so với các đồng tiền của các
nước Đông Á
Về
dư nợ tín dụng toàn nền kinh
tế,
số liệu từ NHNN cũng cho thấy, tính
đến 25/9, tăng trưởng tín dụng ước đạt
9,62% so với cuối năm 2021 và không có quá nhiều thay đổi từ
cuối tháng 6 (tăng 9,35%). Như vậy, trong vòng gần 3 tháng trở lại đây, lượng
tín dụng bơm mới vào nền kinh tế là rất hạn chế. Điều này là một
trong những yếu tố khiến thanh khoản hệ thống luôn ở trạng thái dồi
dào. NHNN phải liên tục đảo chiều bơm - hút ròng nhằm
điều tiết lãi suất vay mượn nhau giữa các ngân hàng ở mức hợp lý. Mức hợp lý ở
đây là để chênh lệch lãi suất giữa VND và USD không quá lớn và thuận lợi cho
việc ổn định tỷ giá. Để đảm bảo thanh khoản cho tăng
trưởng tín dụng năm 2023, nhiều khả
năng các ngân hàng sẽ tăng lãi suất để hấp dẫn tiền gửi từ thị trường. Lãi suất
khó có thể duy trì trạng thái thấp kéo dài, song nếu giả thiết về
việc Fed dần tới giới hạn tăng
lãi suất dẫn tới áp lực lên tỷ giá và lãi suất của Việt Nam,
thì đó là dư địa không nhỏ để NHNN ổn định mặt
bằng lãi suất trong tương lai.
3.
Dự báo tăng trưởng
kinh Việt Nam năm 2022
Tăng trưởng kinh tế thế
giới được dự báo chậm lại. Diễn biến cuộc
xung đột Nga - Ukraine sẽ còn tiếp tục gây tác động tiêu cực đến kinh tế toàn
cầu, không chỉ với các nền kinh tế lớn mà còn
làm bất ổn thị trường hàng hóa, năng lượng, tài chính - tiền tệ thế giới, làm
tăng giá và mặt bằng lạm phát toàn cầu,
gián đoạn chuỗi lưu thông hàng hóa vốn đang chưa thực sự hồi phục sau hơn 2 năm
đại dịch Covid-19. Chính sách zero-covid của Trung Quốc không những chặn đà tăng
trưởng cao của nước này và có nguy cơ ảnh hưởng đến kinh tế
thế giới, và làm gián đoạn chuỗi cung ứng, đặc biệt với các quốc gia
liên quan thương mại hàng hóa và phụ thuộc nguồn nguyên liệu từ Trung Quốc. IMF
(7/2022) đã điều chỉnh mức tăng trưởng kinh tế thế giới đạt
3,2% năm 2022 và 2,9% năm 2023 (giảm lần lượt 0,4 và 0,7 điểm % so với báo cáo
tháng 4/2022 trước đó).
Ngân hàng Thế giới (WB) (6/2022) cũng điều
chỉnh tăng trưởng kinh tế thế giới giảm 1,2 điểm % trong năm 2022 còn 2,9% và
0,2 điểm % năm 2023 còn 3% so với báo cáo trước đó (01/2022).
Trong nước, trong trung hạn,
kinh tế Việt Nam có nhiều cơ hội để hồi phục và phát triển, song cũng
đối mặt với không ít khó khăn, rủi ro, thách thức. Trong
giai đoạn tới, kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng của các
yếu tố phức tạp từ bên ngoài như: sự phục hồi chậm và khó khăn của các đối tác
thương mại lớn; diễn biến căng thẳng của cuộc xung đột Nga - Ukraine cũng như
xu hướng thắt chặt tài khóa, tiền tệ gia tăng trước
bối cảnh lạm phát đạt mức kỷ lục tại nhiều nước; giá cả nhiểu
mặt hàng thế giới tiếp tục xu hướng tăng gây nhiều áp lực lên giá
cả đầu vào sản xuất tại Việt Nam; sự gián đoạn chuỗi
cung ứng do Trung Quốc tiếp tục đóng cửa biên giới. Tuy nhiên, trong ngắn
hạn, cụ thể là đến hết năm 2022, triển vọng tăng
trưởng kinh tế Việt Nam vẫn khá khả quan. Thứ nhất, là
do hoạt động sản xuất kinh doanh khởi sắc và đạt được
kết quả khá toàn diện trên nhiều mặt của 3 quý đầu năm 2022
tạo ra mức tăng trưởng khả quan trong 9 tháng đầu năm. Thứ hai, do tăng trưởng quý IV/2021 ở mức thấp nên khả năng tăng
trưởng ước đạt của quý IV/2022 được kỳ vọng ở mức cao.
Việt Nam cũng đang có
nhiều lợi thế trong thu hút FDI nhờ nhiều Hiệp định thương mại tự do
có hiệu lực. Hơn nữa, nhiều tổ chức xếp hạng cũng có những đánh giá
tích cực về kinh tế Việt Nam cũng như những đánh giá lạc quan, tin tưởng vào
môi trường đầu tư, kinh doanh của
các nhà đầu tư FDI. Như
vậy, có thể kỳ vọng vào bức tranh thu hút vốn ngoại khởi sắc, có thể thu hút
khoảng 40 tỷ USD vốn FDI đăng ký và 21 - 22 tỷ
USD vốn thực hiện như mục tiêu đề ra. Kinh tế vĩ mô đang khá ổn định, cụ thể là
lạm phát ở mức thấp, trong tầm kiểm soát, tạo điều
kiện cho các chính sách kinh tế có thể tập trung nhiều hơn vào hồi phục kinh tế
sau đại dịch Covid-19.
Trước diễn
biến của tình hình mới, trong Báo cáo điểm lại tháng 8/2022, WB nhận định, nền
kinh tế Việt Nam đang hồi phục sau hai năm tổn thương, nhưng phải đối
mặt với những thách thức trong nước cũng như môi trường kinh tế
toàn cầu bất lợi trong ngắn hạn và trung hạn. WB dự báo tăng trưởng GDP của
Việt Nam đạt 7,2% trong năm 2022. IMF cũng nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nsm
lên 7% trong năm 2022 và là quốc gia duy nhất được điều chỉnh tăng đáng kể
trong số các nền kinh tế lớn ở Châu Á. ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng của
Việt Nam ở mức 6,5% cho năm 2022 (so với dự báo trong tháng 4/2022). Các tổ
chức, chuyên gia kinh tế đều chung nhận định áp lực lạm phát sẽ tăng, song Việt
Nam vẫn có thể kiểm soát lạm phát ở mức dưới 4% trong năm 2022.
Trên cơ sở đánh giá các yếu tố ảnh hưởng, Trung tâm Thông tin và Dự báo
kinh tế - xã hội quốc gia dự báo tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2022 trong
khoảng từ 8 -8,5% với giả thiết tình hình kinh tế thế giới và trong nước không
có biến động đặc biệt, trong đó động lực hồi phục chủ yếu là sự hồi phục mạnh
mẽ của nhóm ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô khác được ước thực hiện trong bảng sau:
Bảng 1. Ước thực hiện một số chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2022
TT
|
NỘI DUNG
|
ĐVT
|
NĂM 2021
|
ƯỚC TH 2022
|
1
|
Tốc độ tăng trưởng GDP
|
%
|
2,58
|
8-8.5
|
|
|
%
|
2,9
|
3,6-3,9
|
|
|
%
|
4,05
|
9,5-10,5
|
|
|
%
|
1,22
|
8-10
|
2
|
Cơ cấu kinh tế
|
%
|
100
|
100
|
|
-Khu vực
NLTS
|
%
|
12,36
|
10,91
|
|
-Khu vực
CN –XD
|
%
|
37,86
|
37,80
|
|
-Khu vực
DV
|
%
|
40,95
|
42,04
|
|
-Thuế
sản phẩm trừ trợ câp
|
%
|
8,83
|
9,25
|
3
|
Chỉ số giá tiêu dung (CPI) bình quân năm
|
%
|
1,84
|
3,5-3,8
|
4
|
Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội
|
%
|
0,2
|
13,68
|
|
-Tỷ lệ
so với GDP
|
%
|
34,4
|
35,5
|
5
|
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
|
Triệu USD
|
334.401
|
387.384
|
|
-Tốc độ
tăng trưởng
|
%
|
18,8
|
15,8
|
6
|
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa
|
Triệu USD
|
331.273
|
357.149
|
|
-Tốc độ
tăng trưởng
|
%
|
24,8
|
7,8
|
7
|
Cán cân thương mại (xuất khẩu – nhập khẩu)
|
Triệu USD
|
3.128
|
30.199
|
Nguồn:NCIF
(tháng 9/2022)
Nguồn:Cuốn thông tin Báo
cáo viên số 10 năm 2022