Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về đối ngoại qua gần 40 năm đổi mới
Lý
luận về đối ngoại bao gồm các nội dung chính là quan niệm về thế giới,
quan niệm về đối tác (thế giới quan), quan niệm về mục tiêu đối ngoại và
quan niệm về các phương cách thực hiện mục tiêu (mục tiêu, nhiệm vụ,
nguyên tắc, định hướng lớn). Phát triển lý luận về đối ngoại của Đảng
chủ yếu được thể hiện trong Văn kiện Đảng qua các kỳ Đại hội Đảng, bao
gồm các Văn kiện Đại hội, Nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị. Qua
gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển tư duy lý luận về đối ngoại.
1- Quan niệm về thế giới
Đây
là thành tựu quan trọng nhất và có ý nghĩa mở đường cho quá trình đổi
mới tư duy đối ngoại của Đảng ta, với bước chuyển từ quan niệm thế giới
là “đấu trường” đấu tranh giai cấp, sang quan niệm thế giới là không
gian trong đó các nước có chế độ chính trị khác nhau, hợp tác và đấu
tranh trong cùng tồn tại hòa bình; nghĩa là chuyển cách nhìn thế giới từ
lăng kính giai cấp và đấu tranh giai cấp sang nhìn thế giới qua lăng
kính quốc gia - dân tộc, hợp tác rồi đến đấu tranh và cùng tồn tại hòa
bình. Từ sự phát triển tư duy lý luận này của Đảng, cơ hội hợp tác với
các nước phía bên kia “hàng rào sắt” đã được mở rộng, để chúng ta tự tin
vươn ra phần còn lại của thế giới. Cũng từ sự phát triển tư duy lý luận
này và tiếp đó là những chuyến đi nghiên cứu thực tế tại các nước Đông
Nam Á, Đảng ta nhận thấy Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) không
phải là Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) “trá hình”, mà là một tập
hợp mới, trong đó các nước thành viên hợp tác với nhau để cùng đối phó
với các nước lớn ngoài khu vực(1).
Báo
cáo chính trị Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đánh giá thế giới vẫn là
hai phe (xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa), ba phong trào (phong trào
xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc và phong trào công nhân ở
các nước tư bản chủ nghĩa), bốn mâu thuẫn cơ bản của thời đại(2).
Trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới, tháng 5-1988,
trong Nghị quyết số 13-NQ/TW, của Bộ Chính trị khóa VI, quan điểm trên
bắt đầu có những thay đổi. Văn kiện các kỳ Đại hội VII (năm 1991), Đại
hội VIII (năm 1996) và Đại hội XI (năm 2011) của Đảng vẫn đề cập đến mâu
thuẫn cơ bản của thời đại, nhưng chỉ đề cập khi bàn tới các tính chất
của thời đại. Đại hội VIII của Đảng xem “Các nước có chế độ chính trị xã
hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình”(3)
là một trong những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế. Báo cáo chính
trị Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới
biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát
triển”(4). Quan trọng hơn, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại
dần được nhận diện từ góc độ mâu thuẫn trong quá trình phát triển hơn là
mâu thuẫn sớm dẫn đến “cách mạng” lật đổ chủ nghĩa tư bản.
2- Quan niệm về các xu thế lớn trên thế giới
Từ
chỗ tập trung vào việc nhận định các xu thế chính trị (hai phe, các
phong trào...), xu thế chiến tranh, xu thế hòa bình, Đảng ta dần mở rộng
nhận định về các xu thế chung, nhất là xu thế toàn cầu hóa. Báo cáo
chính trị Đại hội VIII của Đảng nhận định về xu thế hòa bình, ổn định;
xu thế hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương
mại; xu thế độc lập dân tộc, chống can thiệp của nước ngoài,... và khẳng
định: “Các đặc điểm và xu thế nêu trên đã làm nảy sinh tính đa phương,
đa dạng trong quan hệ quốc tế và trong chính sách đối ngoại của các
nước”(5).
Về
xu thế toàn cầu hóa, Đại hội IX (năm 2001) của Đảng lần đầu tiên đề
cập, trong đó khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số
nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối,
chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa
có hợp tác vừa có đấu tranh”(6). Trong Báo cáo chính trị Đại
hội X (năm 2006) của Đảng, khái niệm toàn cầu hóa được nêu một lần và
vẫn chỉ nhìn dưới góc độ kinh tế: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội
phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó
khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”(7).
Từ Đại hội XI của Đảng, toàn cầu hóa được nhìn nhận đầy đủ, khách quan,
không mang màu ý thức hệ: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công
nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin
và kinh tế tri thức”(8).
Sự
phát triển lý luận về các xu thế lớn trên thế giới và trong quan hệ
quốc tế đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Nhận
diện các xu thế lớn, định ra chủ trương, chính sách để đưa đất nước hòa
vào các xu thế lớn, tranh thủ tối đa mặt tích cực và giảm thiểu mặt tiêu
cực là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên thành tựu về
đối ngoại của nước ta kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới.
3- Quan niệm về đối tác
Từ
chỗ nhìn đối tác dưới góc độ một thực thể, phân chia đối tác một cách
đơn giản “trắng” hoặc “đen”, đến Nghị quyết Trung ương 8, ngày
12-7-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, “Về Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, quan niệm về đối tác đã được làm rõ:
“Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu
nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất
kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đều là đối tượng của chúng
ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện
nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt
cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với
lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(9). Theo nguyên tắc đó, Đảng ta xác định “đối tác”, “đối tượng” từ hai góc nhìn. Thứ nhất,
nhìn “đối tác”, “đối tượng” như một thực thể “trọn gói”. Góc nhìn này
có thế mạnh là dễ phân biệt. Thực thể nào có chính sách và hành động phù
hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam thì ta ứng xử với họ
như “đối tác” hợp tác. Thực thể nào làm tổn hại đến lợi ích quốc gia -
dân tộc của Việt Nam thì họ là “đối tượng” đấu tranh. Thứ hai,
nhìn “đối tác”, “đối tượng” qua hành vi của họ trong các vấn đề, hoàn
cảnh cụ thể khi quan hệ với ta. Nghị quyết nhấn mạnh, “trong tình hình
diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng:
Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi
đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”.
Đây là cách nhìn phù hợp với tất cả thực thể có chính sách và hành động
khác nhau, tùy theo vấn đề cụ thể, hoàn cảnh cụ thể trong quan hệ với
nước ta. Hai mươi năm qua, cách nhìn này đã mở đường cho quá trình hoạch
định và triển khai chính sách đối ngoại của nước ta với các đối tác,
nhất là các đối tác lớn, các đối tác có những vấn đề khác biệt với lợi
ích quốc gia - dân tộc của nước ta.
4- Quan niệm về mục tiêu đối ngoại
Trước
Đại hội XI của Đảng, mục tiêu đối ngoại của Đảng ta chưa được đề cập
riêng mà hàm chứa trong phần nhiệm vụ đối ngoại. Báo cáo chính trị Đại
hội VI của Đảng nhấn mạnh: “Trong những năm tới, nhiệm vụ của
Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông
Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường
quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng
đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”(10). Có thể thấy,
mục tiêu của các nhiệm vụ này là gìn giữ hòa bình (ở Đông Dương, Đông
Nam Á và trên thế giới), tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi cho
sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào công cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới (nâng cao vị thế đất nước). Văn kiện Đại
hội IX của Đảng đề cập nhiệm vụ bảo vệ “độc lập và chủ quyền quốc gia”
(mục tiêu an ninh).
Văn
kiện Đại hội XI của Đảng lần đầu tiên nêu mục tiêu đối ngoại “vì lợi
ích quốc gia, dân tộc” khi nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế
của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế(11). Các nội dung về nhiệm vụ
đối ngoại cho thấy, quan niệm của Đảng ta về nội hàm của lợi ích quốc
gia - dân tộc, bao gồm: 1- Các lợi ích an ninh (an ninh lãnh thổ, an
ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh con người...); 2- Các lợi ích
phát triển (môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội...); 3- Nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam ở khu vực và thế
giới. Trong Báo cáo chính trị Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng, mục
tiêu đối ngoại vì lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được khẳng định và
xác định rõ tầm quan trọng: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân
tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(12).
5- Quan niệm về nguyên tắc đối ngoại
Khi
lợi ích quốc gia - dân tộc được xác định là mục tiêu đối ngoại thì
nguyên tắc cao nhất của đối ngoại cũng là vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
Tuy nhiên, trước khi mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia - dân tộc”
được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội XI, lợi ích quốc gia - dân tộc đã
được coi là nguyên tắc đối ngoại của Đảng ta. Năm 1964, tại Hội nghị
Ngoại giao lần thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Làm gì cũng vì
lợi ích dân tộc mà làm”(13). Đối với Người, lợi ích quốc gia -
dân tộc là tư tưởng xuyên suốt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng.
Đại hội XII (năm 2016) của Đảng tiến thêm một bước, nêu rõ nguyên tắc
thứ hai trong đối ngoại, đó là phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế. Đại hội nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc
gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”(14).
Trước đó, trong hoạch định và triển khai chính sách, cả đối nội và đối
ngoại, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế đã được coi là một
trong những nguyên tắc đối ngoại của Việt Nam.
Như
vậy, từ Đại hội XII của Đảng, hai nguyên tắc hoạch định và triển khai
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng ta đã được làm rõ trong Văn
kiện Đảng. Đó là: 1- Vì lợi ích quốc gia - dân tộc; 2- Phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Bên cạnh hai nguyên tắc này, từ
năm 2009, nguyên tắc “bốn không”(15) trở thành nguyên tắc
trong đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng - an ninh nói riêng
của Việt Nam. Việc chỉ rõ nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong
thực hiện minh bạch hóa chính sách đối ngoại, tăng cường lòng tin, giảm
thiểu sự nghi ngờ từ các đối tác.
6- Xác định ưu tiên
Khi
mục tiêu hàng đầu trong đối ngoại của Đảng ta là bảo đảm lợi ích tối
cao của quốc gia - dân tộc, thì thứ tự ưu tiên trong đối ngoại cũng dần
được xác định lại theo mức độ mà chúng ta cần quan tâm trong bảo đảm lợi
ích quốc gia - dân tộc. Do đó, từ thứ tự ưu tiên xếp theo ý thức hệ
(các nước xã hội chủ nghĩa, các nước bạn bè truyền thống, các nước thành
viên phong trào Không liên kết...) chuyển sang ưu tiên các nước láng
giềng, các nước lớn, các nước khác (trong đó có các nước bạn bè truyền
thống). Định hướng đối ngoại của Đảng cũng đề cập quan hệ với các đảng
cầm quyền, đảng tham chính và nêu rõ, nguyên tắc trong đối ngoại đảng là
“vì lợi ích quốc gia - dân tộc”. Nghị quyết Trung ương 8, ngày
12-7-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, “Về Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; tiếp đó là Nghị quyết Trung ương 8,
ngày 28-3-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, xác định rõ hơn thứ tự ưu tiên
trong đối ngoại từ góc độ bảo vệ an ninh quốc gia. Theo đó, thứ tự ưu
tiên các nước láng giềng, các đối tác lớn, đối tác quan trọng được cụ
thể hóa hơn với Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, ASEAN, Mỹ...
7- Xác định các nội hàm quan trọng nhất của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới
Bắt
đầu từ Đại hội VI của Đảng, các nội hàm quan trọng nhất, như độc lập,
tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa; hội nhập quốc tế, dần được làm rõ và
phát triển. Độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa được xác định
từ sớm; hội nhập quốc tế từng bước được mở rộng; mối quan hệ giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cũng được đặt ra từ rất sớm. Báo cáo
chính trị Đại hội VI của Đảng nêu định hướng: “giữ vững độc lập tự chủ,
tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt
nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”(16). Báo cáo
chính trị Đại hội VIII của Đảng lần đầu tiên tách “độc lập, tự chủ” với
hàm ý phân biệt giữa “độc lập” - quyền của quốc gia theo luật pháp quốc
tế và “tự chủ” - năng lực của quốc gia trong thực hiện quyền tự chủ, và
để đề cao tầm quan trọng của việc bảo đảm mối quan hệ giữa “độc lập” và
“tự chủ” trong đối ngoại. Đại hội khẳng định “độc lập, tự chủ” là thành
tựu lớn về lý luận; nhấn mạnh tầm quan trọng của “tự chủ”, tập trung
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia để củng cố năng lực tự chủ, có tự
chủ mới bảo đảm được độc lập. Đồng thời, để bảo đảm được “độc lập, tự
chủ” trong bối cảnh mở cửa thì “đa dạng hóa, đa phương hóa” là phương
cách duy nhất của một nước vừa và nhỏ nhằm tránh sự phụ thuộc vào một
hay một vài đối tác nào đó, cũng như tạo ra được sự tùy thuộc lẫn nhau
với nhiều đối tác. Điều này được cho là đã, đang và sẽ phù hợp với nước
ta.
Riêng
về hội nhập quốc tế, Đảng ta lựa chọn cách tiếp cận từng bước, từ hội
nhập kinh tế (Đại hội VIII): “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với
khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”(17), “Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với các đối tác”(18),
đến hội nhập toàn diện (Đại hội XI): “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(19).
Triển khai Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Bộ Chính trị ban hành Nghị
quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, “Về hội nhập quốc tế”, trong đó xác
định rõ khái niệm, quan điểm chỉ đạo và các định hướng lớn cho hội nhập
quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, nhất là chính trị, quốc phòng, văn
hóa, xã hội và các lĩnh vực khác. Nghị quyết cũng khẳng định lại mối
quan hệ giữa hội nhập kinh tế và hội nhập quốc tế trên tất cả lĩnh vực
khác; mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và mức độ “sẵn sàng” hội nhập
của đất nước: “Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh
vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực
vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn
hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ
trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù
hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước”(20).
8- Phương châm xử lý những vấn đề phức tạp
Bắt
đầu từ Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh phương châm “kiên quyết, kiên
trì” trong xử lý những vấn đề liên quan đến biên giới, lãnh thổ, đến
những khác biệt về dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo...; “kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh:
“Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can
thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định
chính trị đất nước”. Đây không chỉ là sự thể hiện sự phát triển quan
trọng về lý luận, mà còn có ý nghĩa hết sức thiết thực trong công tác
chỉ đạo hành động. Phải “kiên quyết” đấu tranh vì những vấn đề này đều
thuộc phạm vi cốt lõi của lợi ích quốc gia - dân tộc; đồng thời, phải
“kiên trì” vận dụng tất cả các biện pháp hòa bình được nêu trong Điều 33
Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm: “đàm phán, điều tra, trung gian,
hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những điều ước
khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác”(21), trước khi thực hiện các biện pháp “kiên quyết”.
9- Định hướng đối ngoại song phương và đối ngoại đa phương
Về đối ngoại song phương, từ Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”(22).
Đây là sự phát triển tất yếu trong đường lối đối ngoại của Đảng sau khi
nước ta đã thiết lập quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới cũng
như các tổ chức khu vực và quốc tế lớn. Đại hội X của Đảng không đưa ra
nội hàm cụ thể của “chiều sâu”, nhưng các định hướng triển khai trong
các lĩnh vực thể hiện khá tập trung ở ba tiêu chí mà chúng ta muốn đạt
được trong quan hệ với đối tác. Đó là, gia tăng mức độ đan xen lợi ích,
nhất là các lợi ích lớn, lợi ích lâu dài; gia tăng số lượng và hiệu quả
các cơ chế hợp tác để thúc đẩy quan hệ cũng như xử lý các vấn đề nảy
sinh. Về đối ngoại đa phương, vấn đề này được Đảng ta nêu từ
rất sớm, thể hiện qua các định hướng tham gia ASEAN, Diễn đàn Hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM),
Liên hợp quốc... Khi nước ta đã tham gia tích cực vào hầu hết cơ chế
hợp tác đa phương khu vực và toàn cầu, một bước phát triển mới về lý
luận đối ngoại đa phương được nhấn mạnh trong Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày
8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương
đến năm 2030”; tiếp đó, được đưa vào định hướng trong Báo cáo chính trị
Đại hội XII của Đảng, nhấn mạnh chúng ta phải chủ động, tích cực hơn
trong việc tham gia vai trò dẫn dắt, định hướng, trung gian, hòa
giải,... thể hiện trách nhiệm lớn hơn trong các tổ chức, diễn đàn khu
vực và toàn cầu. Định hướng đối ngoại song phương và đối ngoại đa phương
là phát triển lý luận quan trọng trong bối cảnh đất nước ta bước vào
giai đoạn phát triển mới, với thế và lực mới, do vậy đối ngoại phải đáp
ứng những yêu cầu mới của nhiệm vụ phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
10- Vai trò tiên phong của đối ngoại
Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên
phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng
cao vị thế và uy tín của đất nước”(23). Đây là bước kế thừa
truyền thống coi trọng đối ngoại/ngoại giao của ông cha ta trong suốt
tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước; cũng là tiếp thu tinh hoa
trong các trường phái ngoại giao lớn của nhân loại. Xác định nhiệm vụ
“tiên phong” của đối ngoại, Đảng ta giao cho đối ngoại ba vai trò quan
trọng: 1- Tạo lập môi trường hòa bình, ổn định; 2- Gìn giữ môi trường
hòa bình, ổn định; 3- Khai thác hiệu quả môi trường hòa bình, ổn định
cho các mục tiêu bảo đảm an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất
nước.
Quan
gần 40 năm đổi mới, cục diện đối ngoại của nước ta đã thay đổi căn bản.
Từ một nước bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã trở thành một thành viên
tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, được bầu vào Hội đồng
Bảo an với số phiếu cao nhất trong lịch sử 75 năm của Liên hợp quốc; có
mạng lưới đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, mạng lưới hiệp định
thương mại tự do (FTA) rộng lớn nhất trong khu vực. Các thành tựu này
bắt nguồn trước hết từ những phát triển về lý luận đối ngoại của Đảng
ta. Những thay đổi của khu vực và thế giới, mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam hùng cường đặt ra cho nước ta yêu cầu mới về phát triển lý
luận, trong đó có lý luận đối ngoại. Thành tựu phát triển lý luận đối
ngoại gần bốn thập niên qua là vốn quý để chúng ta tiếp tục triển khai
thành công các nhiệm vụ đối ngoại, đồng thời đóng góp hiệu quả hơn vào
quá trình phát triển lý luận của Đảng về đối ngoại trong thời gian
tới./.
Nguồn:Tạp chí Cộng sản
|
|
-
Đang online:
0
-
Hôm nay:
1
-
Trong tuần:
0
-
Tất cả:
0
|
|