Tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, vấn đề học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có
vị trí, vai trò quan trọng và luôn mang tính thời sự. Trước tình trạng một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như hiện nay thì tăng
cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ
vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người nhấn mạnh, để Đảng trong sạch, vững
mạnh, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, là người lãnh đạo, người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng
ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân”(1).
Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thử máy cấy lúa cải
tiến tại Trại thí nghiệm trồng lúa Sở Nông lâm Hà Nội (năm 1960)_Ảnh: Tư liệu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ nhấn mạnh đạo đức là cái gốc của con người trong mọi thời đại, mà còn
đưa ra khái niệm đạo đức mới, với nội dung mới, phản ánh đạo đức ở tầm cao hơn,
rộng hơn, sâu sắc hơn, đó là đạo đức cách mạng của cán bộ,
đảng viên. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng làm nên sức mạnh của Đảng và là một
nhân tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức bắt nguồn từ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đó còn là sự vận dụng và phát triển sáng tạo đạo đức cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin; sự tiếp thu và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức
của nhân loại mà Người đã tiếp cận được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy
gian lao, thử thách, vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Đối với cách mạng Việt Nam, sự đòi hỏi về đạo đức còn cao
hơn, bởi cách mạng Việt Nam phải tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt: Tiến
hành ở một nước nông nghiệp lạc hậu và phải đương đầu với các thế lực thù địch,
phản động nhất, xảo quyệt nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng nhất
định sẽ thành công, nhưng thành công nhanh hay chậm, mức độ thành công lớn hay
nhỏ... tùy thuộc vào đạo đức cách mạng của những người làm
cách mạng, trình độ giác ngộ cách mạng và ý chí chiến đấu của quần chúng nhân
dân. Người nhấn mạnh: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc
đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(2). “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(3).
Đề cao vai trò của tư
tưởng, tinh thần, đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có người
nói: Lúc này mà xem trọng tinh thần tư tưởng là không duy vật biện chứng. Các
cô, các chú có biết vì sao mà cách mạng của ta thành công không? Vì tinh thần.
Lúc bấy giờ thực dân, phong kiến có công an, quân đội, cảnh sát, chính quyền -
tất cả, Đảng ta chỉ có hai bàn tay không. Vì sao ta thành công? - Vì ta đoàn
kết! Lấy gì mà đoàn kết? Lấy tinh thần!”(4).
Với tinh thần ấy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người không ngừng giáo dục những phẩm
chất đạo đức cách mạng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đạo đức cách
mạng, một mặt, là một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp cách mạng trước
đây cũng như hiện nay; mặt khác, là điều kiện tiên quyết cho sự
thành công của những người lãnh đạo. Trong lịch sử các nước phương Đông nói
chung, Việt Nam nói riêng, những vị vua nắm quyền trị nước cũng như những lãnh
tụ dân tộc muốn lãnh đạo được nhân dân và được nhân dân tin theo, đều phải là
những người gương mẫu về đạo đức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dành cả cuộc đời mình phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Bản thân Người nêu cao
tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng - những phẩm chất
đạo đức cao đẹp, trong đó bao hàm nhiều giá trị mới, tích cực và tiến bộ. Người
quan niệm đạo đức cách mạng là nền tảng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo
ra ý chí, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của người cách mạng. Từ đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng
thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước, khi gặp thuận lợi,
thành công vẫn giữ vững tinh thần chất phác, giản dị, khiêm tốn; lo hoàn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Người chỉ rõ: “Vì lợi ích chung của
Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần
ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần, thì sẵn sàng hy
sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao
quý của đạo đức cách mạng”(5).
Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh vai trò, tác dụng cũng như những biểu hiện cao quý của đạo đức cách
mạng và chứng thực điều đó qua tấm gương của những chiến sĩ cộng sản tiền bối
đã làm nên truyền thống vẻ vang của Đảng, của cách mạng: “Trong Đảng ta, các
đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ,
Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy
sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả
chúng ta học tập”(6).
Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo
đức và tài năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, quyết định sức mạnh tinh thần
to lớn của con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc; nhờ đó mà đạo đức, nhất là
đạo đức cách mạng, góp phần to lớn vào sự thành công của cách mạng nước ta.
Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức
nói chung cũng như đạo đức cách mạng nói riêng cho mọi người, trước hết là cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tựu trung lại, quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng gồm những điểm cơ bản sau đây:
Một là, phẩm chất trung
với nước, hiếu với dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất
khác. Từ quan niệm đạo đức cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong xã hội
phong kiến phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cao
rộng hơn là “trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Trung với nước,
hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng”(7). Chỉ dẫn đó của Người vừa là lời kêu gọi
hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không
chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn lâu dài mãi mãi về sau.
Hai là, tình yêu thương
con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói
về tình yêu thương con người rất toàn diện và độc đáo. Người xác định tình yêu
thương con người là một phẩm chất cao đẹp nhất trong tình cảm đạo đức của loài
người. Người luôn dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những
người lao động bị áp bức, bóc lột. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng
bào, đồng chí rất bao la, sâu rộng và toàn diện, không phân biệt vùng, miền,
trẻ, già, trai, gái..., hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm
lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
thể hiện ở tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt là đối với
những người phạm phải sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: “Mỗi con người đều
có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của
người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản
lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái
phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác”(8). Chính vì
vậy, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, Người
căn dặn Đảng: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(9); mỗi
cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến tình yêu thương con người.
Ba là, các đức tính cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, sáng tạo, có kế
hoạch, có năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao
động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ
cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. Kiệm còn có nghĩa
là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức,
không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là luôn luôn tôn
trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào
của Nhà nước, của nhân dân; phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị,
không ham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, nhờ
đó mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chính nghĩa
là không tà, thẳng thắn, đứng đắn; đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn
chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa
đổi điều dở của bản thân mình; đối với người thì không nịnh hót người trên,
không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết,
thật thà, không dối trá, lừa lọc; đối với việc thì để việc công lên trên, lên
trước việc tư, việc nhà. Chí công vô tư tức là “làm việc vì sự
nghiệp chung, đặt lợi ích công lên trên hết, trước hết; không tư lợi, vụ lợi,
không vì lợi ích riêng”(10). Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình phải đi sau, phải “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, mỗi người, nhất là những người có vị trí ảnh hưởng đối với xã hội, cộng
đồng, phải luôn phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hành theo bốn đức tính:
cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một đức tính cũng không thể thành người. Bởi,
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam,
Bắc/Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/Thiếu một mùa, thì không thành
trời/Thiếu một phương, thì không thành đất/Thiếu một đức, thì không thành
người”(11).
Bốn là, tinh thần quốc
tế trong sáng.
Đó là tinh thần đoàn kết
quốc tế vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một câu thơ “Quan sơn
muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!”(12), là tinh
thần đoàn kết giữa những người cộng sản với các dân tộc bị áp bức và nhân dân
lao động trên thế giới mà Người đã dày công vun đắp bằng thực tiễn hoạt động
cách mạng của mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Đó cũng là tinh
thần đoàn kết, hợp tác và hữu nghị của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân
tiến bộ trên toàn thế giới, vì mục tiêu hòa bình, công lý, tiến bộ xã hội và
độc lập dân tộc.
Đánh giá cao vai trò của
đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ
tốt, đó là người cán bộ phải vừa có tài, vừa có đức, trong đó, đức là gốc.
Chính Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, là kết tinh tất cả
những phẩm chất tốt đẹp nhất của người Việt Nam và những phẩm chất đạo đức cộng
sản cao quý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những quy tắc đạo đức mà Người nêu ra
đã trở thành vũ khí tinh thần mạnh mẽ của cả dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì
độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả
các dân tộc trên thế giới. Trong suốt 53 năm thực hiện Di chúc của
Người, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng tiếp tục là ngọn đuốc soi
đường, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của đất nước ta, nhất là trong bối cảnh mới
hiện nay.
Tiếp tục tăng cường giáo
dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong bối cảnh mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: Để mỗi cán bộ, đảng viên luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức tốt đẹp của mình,
giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng trong mọi điều kiện, môi trường xã hội
khác nhau thì cùng với sự tự giác rèn luyện, phấn đấu, còn phải cần đến sự giúp
đỡ, kiểm tra, giám sát của Đảng. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng trở thành đảng
cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Người coi là công việc càng phải
tiến hành thường xuyên, liên tục hơn. Với nhãn quan đặc biệt nhạy bén về chính
trị, Người đã nhìn nhận rõ tính hai mặt vốn có của quyền lực: Một mặt,
quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết
sử dụng đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu
người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, sa vào con đường tham muốn quyền
lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực; lợi dụng quyền lực để lạm
quyền, lộng quyền, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền, đặc lợi của cá
nhân... Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để ngăn chặn, đẩy lùi và liên tục tẩy
trừ mọi tệ nạn do sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên gây ra, trong
điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội. Nhận thức rõ
sự tác động qua lại giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và môi trường xã hội, cũng
như những đổi thay có thể diễn ra trong nhân cách cùng ý thức và hành vi đạo
đức của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến một nhận định mang tính
triết lý và thực tiễn sâu sắc, có giá trị to lớn trong việc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức
hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và
ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(13).
Đây chính là lời cảnh tỉnh sâu sắc đối với các đảng cộng sản cầm quyền, đối với
mỗi đảng viên cộng sản, nhất là những đảng viên cộng sản có chức, có quyền, giữ
các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân
tộc thôn Đăk Mút, xã Đăk Mar, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum_Ảnh : TTXVN
Qua hơn 35 năm đổi mới,
với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Việc thực hành dân
chủ trong Đảng và trong xã hội có bước chuyển biến tích cực, quyền làm chủ của
nhân dân được phát huy. Đa số cán bộ, đảng viên tích cực trau dồi, rèn luyện
phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng
tạo trong công tác, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới. Tuy nhiên,
trước những tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó có mặt
trái, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế,
sự phát triển của khoa học và công nghệ... một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Nhận định những biểu
hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, ngay từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng đã
chỉ ra những biểu hiện của tình trạng này và coi đó là một trong bốn nguy cơ
đối với cách mạng Việt Nam(14). Tại các kỳ Đại hội Đảng và nhiều hội
nghị Trung ương tiếp theo, Đảng có những đánh giá thẳng thắn về các nguy cơ
này; trong đó, nổi lên các biểu hiện đáng lo ngại là: Những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phai nhạt lý tưởng, niềm tin đối với Đảng,
chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt nguy hiểm là sự “trỗi dậy” của chủ nghĩa cá
nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, chạy theo các giá trị vật chất, xem thường các
giá trị tinh thần; chỉ lo vun vén cho cá nhân mà thờ ơ, lảng tránh trách nhiệm
với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Tính trung thực (cả trong tư tưởng, chính
trị và đạo đức) của không ít cán bộ, đảng viên bị suy giảm nghiêm trọng. Nói
không đi đôi với làm. Kèn cựa địa vị, tranh chức tranh quyền, bằng mọi thủ đoạn
để tìm kiếm các mối quan hệ, liên kết “lợi ích nhóm” bất chính “lợi mình hại
người”, dùng tiền bạc do tham nhũng để mua chức, mua danh, bất chấp cả liêm sỉ,
đạo lý. Nạn tham nhũng tồn tại kéo dài, ngày càng diễn biến phức tạp và tinh
vi, gây nhức nhối về đạo đức trong Đảng, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của
nhân dân và xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ.
Như vậy, thực trạng suy
giảm đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gây hậu quả
rất nặng nề, làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng, mà nếu không được
ngăn chặn và đẩy lùi triệt để thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của
Đảng, của chế độ. Tâm trạng xã hội và ý nguyện của nhân dân lúc này là thiết
tha mong muốn, đồng thời nghiêm khắc đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh bắt
đầu từ đạo đức. Cán bộ, đảng viên phải chứng tỏ trên thực tế, bằng những việc
làm, ứng xử và hành xử, là những người có đạo đức.
Nhìn nhận rõ thực trạng
đó, tại Đại hội XII, Đảng đã nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng Đảng về đạo
đức và đây là một trong những điểm mới, rất căn bản và trọng yếu trong
việc mở rộng nội dung xây dựng Đảng: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức””(15).
Lần đầu tiên, Đảng đưa nội dung xây dựng Đảng về đạo đức - một nội dung quan
trọng trong công tác xây dựng Đảng - vào trong văn kiện. Đại hội XIII của Đảng
bổ sung một thành tố nữa vào công tác xây dựng Đảng là cán bộ:
“Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng,
chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(16). Đó
vừa là định hướng thực tiễn, vừa là chỉ báo đánh giá kết quả xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay. Thực hiện tốt nội dung xây dựng Đảng về đạo đức sẽ góp phần
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán
bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩ#m chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây chính là khâu đột phá về lý luận và thực
tiễn đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện một đảng duy
nhất cầm quyền đang thực thi trọng trách lịch sử mà dân tộc và nhân dân ủy
thác: Lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, vì Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong thời gian tới, để
tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần đặc biệt quan tâm đến một số nội dung sau:
Một là, mọi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập và
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh. Đây phải được xác định là biện pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ
thường xuyên và lâu dài trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Trước hết, việc
học tập, tự học tập để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về đạo đức cách
mạng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Các nội dung học tập phải được
đưa vào sinh hoạt chi bộ và trở thành nền nếp. Thường xuyên trao đổi, thảo
luận, tự phê bình và phê bình, đóng góp ý kiến xây dựng cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý của cơ quan, đơn vị, địa phương. Biểu dương những việc làm tốt, kịp
thời phát hiện, uốn nắn những việc làm chưa tốt, nhất là trong việc vận dụng tư
tưởng, đạo đức, phong cách của Bác vào việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của
từng cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác phấn đấu và tu
dưỡng, rèn luyện theo những chuẩn mực đạo đức được xây dựng ở địa phương, cơ
quan, đơn vị, trong từng tổ chức đảng.
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Si Ma
Cai, tỉnh Lào Cai giúp dân_Nguồn: baolaocai.vn
Hai là, nâng cao chất lượng công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; theo đó, tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương
4 khóa XI, XII, đặc biệt là quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận số
21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý
nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Đây được xác định là khâu mấu chốt
để thực hiện việc nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chống
chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, khắc phục tình trạng suy thoái về đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
Để thực hiện tốt nội
dung này, cần giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, phát huy
dân chủ trong Đảng, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm các
nghị quyết, quy định của Đảng về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu(17).
Ba là, coi trọng xây dựng quy chế làm việc, xác
định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức; đồng thời, tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tổ
chức. Một mặt, để nêu cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ,
đảng viên, yêu cầu đặt ra trước hết là phải xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ
của mỗi người, mỗi tổ chức thì tổ chức, đơn vị đó mới hoạt động có hiệu quả.
Thực tế cho thấy, phải có trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng thì mỗi cá nhân mới có
đóng góp cụ thể cho tổ chức, mới “nói đi đôi với làm”, tham gia cùng tập thể
chống chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, để động viên, khuyến khích tinh
thần trách nhiệm và hạn chế thói lười biếng, vô trách nhiệm, ỷ lại, tư lợi cá
nhân của cán bộ, đảng viên, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, đảng viên. Cấp ủy các cấp cần thực
hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát về những nội dung này; thông qua kiểm
tra, giám sát để quản lý chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên ở nơi công tác, nơi cư
trú và khi công tác xa cơ quan, đơn vị, nhất là những cán bộ có chức, có quyền,
trong các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra sai phạm, như quản lý kinh tế, công tác
cán bộ... Đồng thời, phát hiện và xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên vi
phạm tư cách, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội,
bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức,
sinh hoạt đảng.
Bốn là, không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách,
pháp luật gắn với việc tăng cường hơn nữa tính nghiêm minh của kỷ luật đảng và
pháp luật của Nhà nước. Quá trình đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc
tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đặt ra yêu
cầu phải khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để hạn chế những
“lỗ hổng” dễ bị lợi dụng; đặc biệt, cần tăng cường kỷ cương, phép nước, tính
nghiêm minh của pháp luật để củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan
nhà nước. Đồng thời, tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng và thực hiện kỷ
luật đảng thật sự nghiêm minh; xử lý kịp thời, công khai những cán bộ, đảng
viên vi phạm, dù ở cương vị, chức trách nào; kiên quyết đấu tranh với những
thói hư, tật xấu trong Đảng.
Năm là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân trong giám sát cán
bộ, công chức. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài của công tác xây dựng
Đảng, cũng như trong việc phòng, chống chủ nghĩa cá nhân và ngăn chặn tình
trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện
nay. Bên cạnh đó, cần phát huy mặt tích cực của dư luận xã hội, các phương tiện
thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giáo dục, răn đe đối với mọi cán bộ,
đảng viên, đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống./.
` Nguồn:tapchicongsan.org.vn