Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả và linh hoạt không chỉ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, mà còn là nền móng để hiện thực hóa khát vọng phát triển của Việt Nam. Những giải pháp được đề xuất, từ nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đến hoàn thiện thể chế pháp quyền và ứng dụng công nghệ số, là các trụ cột giúp xây dựng một hệ thống quản trị minh bạch, trách nhiệm và đổi mới, đáp ứng nhu cầu của người dân và tạo động lực phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức, đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh (Trong ảnh: Tổng Bí thư Tô Lâm với các đồng chí Ủy viên Trung ương, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng) _Nguồn: dangcongsan.vn

Bối cảnh quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ tiên tiến, như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) và điện toán đám mây (Cloud)… đã và đang làm thay đổi sâu sắc phương thức quản trị quốc gia và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với Việt Nam, sự thay đổi này mang lại cả cơ hội và thách thức, khi quốc gia không chỉ phải nâng cao hiệu quả quản trị, mà còn phải nắm bắt thời cơ để đẩy nhanh tốc độ phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Trong bối cảnh này, khát vọng phát triển trở thành động lực thúc đẩy toàn xã hội, nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao, xã hội thịnh vượng và sánh vai với các cường quốc năm châu. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định dấu mốc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng; từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức, đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước XHCN phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại(1). Để hiện thực hóa khát vọng này, hệ thống quản trị quốc gia phải phát huy tối đa vai trò kiến tạo và thúc đẩy toàn diện các lĩnh vực; đồng thời, duy trì sự ổn định và đồng thuận trong xã hội.

Thách thức và cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các tiến bộ này trong quản trị quốc gia nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển. Việc phát triển nền kinh tế số, xã hội số, chính phủ số là trọng tâm để bảo đảm hiệu quả và sự cạnh tranh trong dài hạn. Đây không chỉ đơn thuần là áp dụng công nghệ, mà còn là cách mạng về tư duy, đòi hỏi năng lực thích ứng cao từ hệ thống pháp lý, hạ tầng kỹ thuật đến nguồn nhân lực. Nếu chậm chân trong cuộc đua này, Việt Nam có nguy cơ tụt hậu và bị ảnh hưởng bởi sự phụ thuộc vào các quốc gia đi trước trong lĩnh vực công nghệ số.

Nhu cầu về một phương thức quản trị quốc gia linh hoạt và thích ứng: Theo báo cáo phát triển con người của Liên hợp quốc, các quốc gia hiện nay đang đối mặt với môi trường biến động và phức tạp, đòi hỏi một phương thức quản trị linh hoạt, có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi. Người dân kỳ vọng vào một hệ thống minh bạch, hiệu quả, có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh quốc gia chịu tác động bởi biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống và những biến động kinh tế - xã hội phức tạp.

Chuyển đổi tư duy quản trị: Từ quản lý đến kiến tạo phát triển: Việt Nam đang chuyển hướng từ quản lý theo kiểu truyền thống sang một nền quản trị dựa trên sự tham gia của nhiều thành phần trong xã hội. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải tạo điều kiện cho các chủ thể khác tham gia sáng tạo và phát triển; đồng thời, khuyến khích hợp tác, sáng tạo và minh bạch trong hệ thống quản trị. Chính phủ hiện đại không chỉ là chủ thể cung ứng dịch vụ công, mà còn là người bảo đảm an sinh xã hội và điều kiện phát triển bền vững.

Bối cảnh nội tại và những thách thức đặc thù của Việt Nam: Việt Nam hiện là một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng trong nhóm 20 quốc gia hàng đầu về thu hút đầu tư nước ngoài, nhờ vị thế địa lý và tiềm lực phát triển cao. Tuy nhiên, các thách thức vẫn còn, như tình trạng già hóa dân số và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Chính quyền cần phát huy hiệu quả thời gian còn lại để thực hiện kỳ vọng đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Dữ liệu tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV _Ảnh: TTXVN

Đặc trưng của quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả

Sự vận động và phát triển của xã hội kéo theo những đòi hỏi và yêu cầu đổi mới, cải cách phương thức vận hành, quản trị nhà nước, quản trị quốc gia thích ứng với từng giai đoạn lịch sử.

Xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trở thành tất yếu khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tại Việt Nam, đây cũng là một nội dung quan trọng, có tính cấp thiết đặt ra trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu tới năm 2045, Việt Nam là nước phát triển có thu nhập cao, quốc gia hùng cường, nhân dân hạnh phúc. Để đạt mục tiêu này, Đại hội XIII của Đảng cũng xác định rõ: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả”(2) là một trong những nội dung của khâu đột phá đầu tiên trong ba đột phá chiến lược (hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ) đưa đất nước phát triển.

Nội hàm khái niệm quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả không phải là nói tới mô hình hay kiểu nhà nước mới, mà nói tới phương thức quản trị nhà nước, quản trị quốc gia theo các nguyên tắc, chuẩn mực mang tính phổ quát để thích ứng với bối cảnh mới. Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam được hiểu chính là quá trình Nhà nước với vai trò là trung tâm dựa trên những nguyên tắc, chuẩn mực phổ quát của quản trị tốt, sử dụng các công cụ, phương tiện, phương thức phù hợp huy động mọi nguồn lực của quốc gia và sự tham gia của các chủ thể trong xã hội để ban hành, tổ chức thực hiện các quyết sách, mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm đưa quốc gia phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả(3).

Đặc trưng của quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả mà chúng ta hướng tới là:

- Sự tham gia rộng rãi của người dân và các chủ thể trong xã hội:

Sự vận động và phát triển của xã hội trong bối cảnh mới đang làm thay đổi, dịch chuyển các cấu trúc và phương thức vận động của sự phát triển. Mô hình quản trị hiện đại cần gắn kết đa chiều giữa Nhà nước, xã hội, thị trường. Từ vị trí trung tâm, Nhà nước đảm nhận vai trò kiến tạo “khung khổ pháp lý - luật chơi” và “xác lập các thiết chế - sân chơi”, bảo đảm cho mọi thành phần đều có không gian đóng góp vào sự phát triển của quốc gia, không chỉ với tư cách là đối tượng quản lý, mà còn là các chủ thể đồng hành có trách nhiệm, bổn phận vì lợi ích chung.

Trong nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, vai trò của người dân và các chủ thể ngoài nhà nước không chỉ giới hạn ở việc tuân thủ các chính sách, pháp luật, mà còn bao gồm quyền tham gia trực tiếp vào giám sát, phản biện, đóng góp cho sự phát triển xã hội.

Để thúc đẩy sự tham gia của người dân, cần thiết lập các cơ chế pháp lý cụ thể, bảo đảm quyền và trách nhiệm của người dân trong việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tham gia phản biện, đóng góp ý kiến vào các quyết sách. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai thông tin liên quan đến những vấn đề mà người dân quan tâm, bảo đảm tính minh bạch; từ đó, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thông tin chính xác và đầy đủ. Đồng thời, việc phản hồi và giải trình từ phía chính quyền về các ý kiến, kiến nghị của người dân cần được thực hiện kịp thời và nghiêm túc. Điều này giúp hình thành một kênh đối thoại hai chiều giữa Nhà nước và người dân, tăng cường niềm tin vào bộ máy công quyền, cũng như củng cố sự đồng thuận trong xã hội. Sự tham gia chủ động của người dân sẽ góp phần bảo vệ lợi ích công, ngăn ngừa tham nhũng, lạm quyền, và tạo sự cân bằng, hài hòa giữa Nhà nước và xã hội trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.

Pháp quyền và trách nhiệm của Nhà nước:

Nhà nước cần có hệ thống pháp luật đầy đủ, dân chủ và mang tính pháp quyền cao. Pháp luật phải dựa trên yêu cầu thực tiễn và là công cụ hỗ trợ phát triển, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mọi công dân và tổ chức; đồng thời, bảo đảm kiểm soát quyền lực và duy trì trật tự xã hội.

Thứ nhất, Nhà nước phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Nhưng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền cần được tiếp cận theo hướng: Nhà nước pháp quyền là nhà nước “tiết kiệm pháp luật”, không được lạm dụng pháp luật. Luật ban hành phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, nhằm tạo khuôn khổ thể chế để kiến tạo, hỗ trợ cho sự phát triển, không phải lạm dụng pháp luật để cản trở, kìm hãm sự phát triển xã hội.

Thứ hai, phải xem pháp luật là tối thượng. Mọi chủ thể trong xã hội phải luôn có tinh thần thượng tôn pháp luật, phán quyết bằng pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi công dân, tổ chức.

Thứ ba, pháp luật thực sự dân chủ. 

Thứ tư, có cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực của Nhà nước. Thiết kế pháp luật nhất là về bộ máy nhà nước, không chỉ là trao quyền cho cơ quan nhà nước hoạt động, mà còn là phương thức để kiểm soát quyền lực của các cơ quan nhà nước. Bảo đảm mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải được kiểm soát, hợp pháp, hợp lý và hướng tới sự bảo vệ giá trị công, lợi ích công. Không có tư lợi, vụ lợi, “lợi ích nhóm”, tham nhũng trong hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật.

Thứ năm, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính chuyên nghiệp và một hệ thống tư pháp độc lập, nhằm tránh sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật và bảo đảm công lý được thực thi.

Thứ sáu, tôn trọng, bảo đảm và hiện thực hóa pháp luật. Chú trọng hướng tới tính khả thi, tính hợp lý, tính hiệu quả và các điều kiện để pháp luật được thực hiện.

Thứ bảy, pháp luật bảo đảm duy trì trật tự và ổn định đất nước, người dân sống một cuộc sống hạnh phúc. Pháp luật sinh ra là để bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Pháp luật để trừng trị hành vi cố tình vi phạm, không phải nhằm mục đích cai trị, cai quản con người. Hình thành hệ thống pháp luật để tạo khung khổ pháp lý với mục đích tạo điều kiện để công dân được bảo vệ, được sáng tạo, và phát huy tốt nhất năng lực của mình.

Điều kiện của nguyên tắc pháp quyền trong quản trị quốc gia là trách nhiệm của Nhà nước trong việc xác lập và bảo đảm nền chính trị dân chủ; nhận thức của công dân về dân chủ, pháp luật và đạo đức được nâng cao; cải cách hệ thống lập pháp, hệ thống tư pháp và hoàn thiện hệ thống giám sát, phản biện xã hội.

- Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình:

Trong bối cảnh mới với công nghệ số và sự tham gia rộng rãi của người dân và toàn xã hội, mọi thứ không còn là bí mật, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức cần vận hành theo nguyên tắc “tối đa hóa công khai” và “tối thiểu hóa bí mật”. Mọi hoạt động của cơ quan nhà nước cần vận hành theo nguyên tắc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, đặc biệt trong việc ra quyết sách và cung cấp thông tin liên quan đến lợi ích của người dân. Trách nhiệm giải trình giúp gia tăng niềm tin và sự tham gia của xã hội; đồng thời, tạo môi trường lành mạnh, ngăn ngừa tình trạng thông tin sai lệch, tin giả.

Trách nhiệm giải trình bao gồm 2 nội dung là: Năng lực giải trình và chịu trách nhiệm trước hậu quả xảy ra của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức khi thực thi công vụ.

Yêu cầu của công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị quốc gia bao gồm các nội dung: 1- Nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước và công chức về hành động và các quyết sách của mình khi có yêu cầu của các chủ thể: Cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp, của người dân và xã hội. 2- Cơ chế để bảo đảm người dân và các chủ thể trong xã hội có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước và công chức phải có trách nhiệm giải trình về hành động và các quyết sách của mình. 3- Nghĩa vụ cung cấp thông tin một cách khách quan, công bằng, minh bạch và đúng sự thật về hoạt động của cơ quan nhà nước, của công chức. 4- Nghĩa vụ cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các chủ thể trong xã hội. 5- Trách nhiệm của Nhà nước và công chức về hậu quả của những hành vi và quyết sách của mình.

Khi Nhà nước và công chức thực hiện được trách nhiệm giải trình sẽ xây dựng nên một cơ chế thông tin đối thoại, tham vấn thông suốt giữa một bên là Nhà nước và một bên là công dân và xã hội. Đó cũng là cách thức gia tăng niềm tin của người dân vào nhà nước liêm chính, nhà nước phục vụ.

Do đó, cần xem công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình không chỉ là nghĩa vụ, là sự bị động của chính quyền và cán bộ, công chức, mà còn là quyền và sự chủ động cung cấp thông tin, giải thích và chịu trách nhiệm của chính quyền và cán bộ, công chức trước nhân dân, xã hội về những việc mà chính quyền đã, đang và sẽ làm.

- Quản trị nhằm đáp ứng kỳ vọng của người dân và xã hội ở mức cao:

Kỳ vọng của bất cứ người dân nào vào chính quyền tập trung ở hệ thống chính sách an sinh xã hội và các bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Kỳ vọng của người dân và xã hội đề cập đến mức độ mà mọi người có thể tham gia vào đời sống xã hội và kinh tế của cộng đồng, đem lại hạnh phúc cho người dân. Người dân luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong các quyết sách của chính quyền. Chỉ số hạnh phúc, sự thụ hưởng và hài lòng của người dân cần trở thành chỉ số quan trọng để hoạch định và đánh giá chính sách.

Trong kỷ nguyên phát triển từ GDP sang kỷ nguyên hạnh phúc, tiếp cận hạnh phúc trong phân tích chính sách là một kênh thông tin mới bổ sung cho cách tiếp cận truyền thống, giúp các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong việc đưa ra những quyết sách điều hành đất nước. Bảo đảm sự đồng bộ trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội với các chính sách kinh tế, chính sách văn hóa, lao động và việc làm. Và vì vậy, trong quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả cần có tư duy tiếp cận hạnh phúc, đưa các yếu tố, chỉ số đo lường về sự thụ hưởng, sự hài lòng của người dân trong cả 3 giai đoạn: Hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách, pháp luật của Nhà nước; từ đó, đáp ứng sự kỳ vọng của người dân, và củng cố niềm tin của người dân đối với Nhà nước.

Trong quản trị quốc gia hiện đại, những thay đổi mới về nhu cầu của con người trong bối cảnh mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với việc đổi mới và xây dựng chính sách xã hội. Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định: “Xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Gắn chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”(4). “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế. Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ - bền vững”(5).

- Quản trị tạo sự đồng thuận và công bằng xã hội:

Quản trị quốc gia hiện đại hướng tới sự đồng thuận cao, dựa trên giá trị công lý và công bằng xã hội. Đồng thuận này không phải là sự phục tùng, mà là kết quả của quá trình điều hòa lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội, tạo nền tảng cho xã hội ổn định, phát triển hài hòa.

Cơ sở của đồng thuận chính là sự tương đồng dựa trên những giá trị, chuẩn mực chung. Trong quản trị quốc gia, cần có cách thức để tìm được sự đồng thuận giữa xã hội và chính phủ thông qua các hoạt động nhằm điều hòa lợi ích của người dân, của các tổ chức và của Nhà nước; có như vậy, mới thiết lập được một xã hội có tính đồng thuận cao và bảo đảm được lợi ích của cả cộng đồng.

Quản trị quốc gia hiện đại hướng tới mục tiêu tạo sự đồng thuận, dựa trên công lý, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, cơ hội, không phải các giá trị thực dụng (thiểu số phục tùng đa số). Để đạt được sự đồng thuận, thể chế phải bảo đảm cho sự công bằng được thực hiện trên thực tế. Nhà nước cần nhận thức được rằng, mọi người đều có khả năng và cơ hội trở thành người vượt trội. Thể chế công bằng tạo cơ hội phát triển toàn diện phù hợp với năng lực và điều kiện của mỗi cá nhân. Không ai bị bỏ lại phía sau. Không ai bị tụt hậu trong sự phát triển chung của xã hội.

- Trách nhiệm quốc gia trong tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu:

Trong bối cảnh thế giới hiện nay, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc trước những vấn đề toàn cầu, như môi trường, dịch bệnh, an ninh phi truyền thống... Quá trình toàn cầu hóa cũng làm cho các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau, đan xen các lợi ích trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia thúc đẩy việc tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu để nâng cao vị thế, vai trò, tầm ảnh hưởng của quốc gia trên trường quốc tế. Trách nhiệm quốc gia trong tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu trở thành đặc điểm quan trọng của quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.

Thách thức đặt ra cho mỗi quốc gia sẽ là làm thế nào để luôn “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết” nhưng vẫn tuân thủ những chuẩn mực, giá trị chung của nhân loại. Không bị kéo theo sự cạnh tranh của các nước lớn để vẫn giữ được sự tôn trọng, độc lập, chủ quyền, tự chủ, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Các bên cùng thắng, cùng có lợi trong môi trường đa chủ thể và cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia.

- Quản trị hướng tới mục tiêu phát triển bền vững:

Quản trị hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ở 3 trụ cột: Bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường, vừa đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại, vừa không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai. Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả hướng tới mục tiêu phát triển bền vững yêu cầu chính phủ mỗi quốc gia cần xây dựng: 1- Hệ thống quản lý phát triển bền vững; 2- Hệ thống pháp luật để phát triển bền vững; 3- Phát triển bền vững hệ thống khoa học và công nghệ; 4- Hệ thống giáo dục bền vững; 5- Sự tham gia của cộng đồng vào phát triển bền vững.

- Tính hiện đại, hiệu quả xuyên suốt trong quản trị quốc gia:

Quản trị quốc gia suy cho cùng là hướng đến giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra trong điều kiện nhu cầu thì vô hạn nhưng nguồn lực thì luôn hữu hạn và môi trường biến đổi không ngừng. Trong bối cảnh mà các hành vi và các mối quan hệ xã hội vận động và phát triển theo hướng cái sau mới hơn, tiến bộ hơn, hiện đại hơn cái trước đặt ra thách thức cho nhà quản trị phải có công cụ và phương pháp quản trị hiện đại, phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội. Khoa học - công nghệ được xem là chìa khóa, giữ vai trò then chốt cho sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.

Để đạt được mục tiêu trên, quản trị quốc gia trước hết cần sự thống nhất nhận thức đổi mới tư duy về xây dựng quốc gia số thực chất là cuộc cách mạng về thể chế để nâng cao năng suất và chất lượng, hiệu quả quản trị điều hành kinh tế - xã hội trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Muốn vậy, cần tập trung vào hoàn thiện thể chế pháp lý cho việc vận hành chính phủ số, quốc gia số; nâng cao năng lực của bộ máy và đội ngũ công quyền; xây dựng nền tảng hạ tầng số quốc gia; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quản trị quốc gia và đẩy mạnh phát triển ứng dụng công nghệ số vào cung cấp dịch vụ cho chính quyền, người dân, doanh nghiệp.

Hiệu quả là các kết quả, lợi ích đạt được khi đặt trong mối tương quan so sánh giữa chi phí và mục tiêu định trước. Quản trị quốc gia hiệu quả thực chất là việc giải quyết, đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của xã hội với chi phí thấp nhất, nhưng mục tiêu đạt được cao nhất. Đo lường hiệu quả quản trị quốc gia xét trên tổng thể các phương diện. Về kinh tế, là sự phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế thông qua các chỉ số phản ánh: Sự tăng trưởng, phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người... Về xã hội, là việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế - xã hội để bảo đảm an sinh xã hội, tăng thu nhập cho người dân, tăng tỷ lệ việc làm, gia tăng các phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống, sự hài lòng, hạnh phúc của người dân… Về chính trị, là năng lực, trình độ huy động mọi nguồn lực quốc gia để thực hiện các quyết sách chính trị, củng cố niềm tin, gia tăng sự đồng tình, ủng hộ của người dân và xã hội vào sự lãnh đạo của bộ máy công quyền.

Diện mạo Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 40 năm đổi mới _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

 

Giải pháp xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Một là, nâng cao nhận thức của mọi chủ thể trong xã hội về khát vọng phát triển quốc gia.

Cần nâng cao nhận thức và hành động của triệu người như một, mọi chủ thể trong xã hội cùng chung niềm tự hào, tự tôn dân tộc cùng chung khát vọng, mục tiêu chiến lược phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu… đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao”(6). Thống nhất được khát vọng, tầm nhìn phát triển của dân tộc sẽ thay đổi nhận thức và hành động của các chủ thể, là cơ sở để đoàn kết mọi lực lượng trong xã hội, vượt lên sự khác biệt, khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp, vượt qua khó khăn, thử thách, tận dụng thời cơ, vận hội, chung tay xây dựng quốc gia hùng cường, xã hội phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong tình hình mới.

Bước vào thời kỳ mới với những tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình trong nước, quốc tế diễn biến nhanh và khó lường, Đảng ta phải giải quyết một loạt các vấn đề để vừa phát huy vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vừa phát huy vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước theo luật định. Cùng với đó, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cũng như thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức đảng với người đứng đầu cơ quan nhà nước cũng phải rõ ràng, rành mạch. Tổ chức bộ máy của các cơ quan đảng cũng phải được thiết kế, tổ chức một cách tinh gọn nhất, tránh chồng chéo, hoặc song trùng quyền lực giữa cơ quan của Đảng và của Nhà nước.

Xây dựng cơ cấu hợp lý cả về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ, phẩm chất, năng lực nổi trội, có quyết tâm đổi mới sáng tạo, có tâm huyết, khát vọng cống hiến. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp chiến lược phải có bản lĩnh, có tâm huyết, có tư duy, tầm nhìn và khát vọng cống hiến, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, đổi mới sáng tạo, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, tinh thông nghề nghiệp, có tác phong làm việc khoa học, chuyên nghiệp.

Kiên định đường lối lãnh đạo của Đảng; đồng thời, nâng cao năng lực quản trị khoa học, bảo đảm dân chủ và quản trị theo pháp luật. Tính khoa học thể hiện ở việc mọi quyết sách của Đảng phù hợp với quy luật khách quan, thực tiễn đang diễn ra cũng như dự báo, lấy lợi ích của nhân dân làm trung tâm. Tính dân chủ thể hiện ở việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt nhân để thực hiện dân chủ trong xã hội và đoàn kết toàn dân.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bảo đảm tính chính trị, cách mạng, hiện đại, thích ứng linh hoạt với thời cuộc. Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát hệ thống quản trị quốc gia và năng lực quản trị của Nhà nước. Phải liên tục nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng thích ứng với tình hình và bối cảnh mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật kiến tạo phát triển.

Để xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, Việt Nam cần tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế theo hướng dân chủ, pháp quyền, kiến tạo sự phát triển theo đúng quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cần có sự đột phá về tư duy để giải quyết bài toán thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”(7). Muốn vậy, trước hết cần đổi mới tư duy trong xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng:

- Trong kỷ nguyên mới, thể chế, chính sách, pháp luật là động lực, là nguồn lực kiến tạo cho sự phát triển.

Chính sách, pháp luật được ban hành là để giải quyết các vấn đề gắn liền với yêu cầu, đòi hỏi phát sinh từ thực tiễn. Thể chế, chính sách là nguồn lực kiến tạo sự phát triển. Do đó, phải áp dụng cách tiếp cận thực tế và thực tiễn trong xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật; bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, giải đáp các vướng mắc của cuộc sống và tìm ra con đường phát triển từ thực tiễn. Chủ động trong nghiên cứu, xây dựng chính sách, pháp luật cho những vấn đề mới, xu hướng mới để tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành nền kinh tế số, xã hội số, chính phủ số, quốc gia số. 

Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật cần dịch chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển. Dịch chuyển từ tư duy “chọn cho” sang tư duy “chọn bỏ” trong hoạch định, thực thi chính sách, pháp luật; để chấm dứt tư duy “xin - cho”, cung cấp kiểu ban ơn, dễ phát sinh những nhũng nhiễu, tiêu cực trong hoạt động của cơ quan công quyền sang tư duy “yêu cầu - đáp ứng” hướng tới sự cung cấp dịch vụ, đáp ứng sự hài lòng và thúc đẩy quan hệ hợp tác, chia sẻ giữa các chủ thể. Khi xây dựng chính sách, pháp luật quán triệt quan điểm thay đổi cách tiếp cận từ đặt nặng vào quy định xác lập “nghĩa vụ” sang chú trọng thiết lập quy định “bảo vệ và bảo đảm quyền” của các bên liên quan.

 Dịch chuyển từ tư duy thực hiện pháp luật không chỉ là “trách nhiệm công vụ”, mà còn hướng tới phải thấm nhuần tư duy “trách nhiệm phục vụ” người dân, xã hội trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Bảo đảm các quy định đối với Nhà nước, cán bộ, công chức “được phép làm những gì pháp luật quy định, cho phép”; đối với công dân “được phép làm những gì pháp luật không cấm”, chấm dứt tư duy “không quản được là cấm” để kiến tạo sự phát triển.

- Thể chế, chính sách, pháp luật hướng tới sự hạnh phúc của nhân dân.

Hạnh phúc là giá trị văn hóa cao nhất, là mục tiêu, khát vọng mong đợi mà mỗi quốc gia muốn đem lại cho mọi người dân trong quá trình tổ chức và thực thi chính sách. Chỉ số hạnh phúc của người dân, của quốc gia là “dự báo” cho sự phát triển toàn diện, bền vững của mỗi quốc gia. Từ việc chỉ chú trọng vào các chỉ số phát triển kinh tế, giờ đây khi tiếp cận hạnh phúc trong phân tích chính sách, pháp luật, Nhà nước sẽ đặt các chỉ tiêu kinh tế trong mối tương quan với các tiêu chí về an toàn, an lành, sự thân thiện, nhân văn, những trải nghiệm và cảm xúc tích cực bên trong của từng cá nhân trong xã hội. Cách tiếp cận hạnh phúc phải được thể hiện cả ở giai đoạn xây dựng, hoàn thiện; tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách, pháp luật. Vì vậy, những nhà quản lý, lãnh đạo quốc gia sẽ có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong việc đưa ra những quyết sách điều hành đất nước.

- Thể chế, chính sách, pháp luật thiết lập và vận hành bộ máy trong hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả.

Tái cấu trúc tổng thể bộ máy trong toàn hệ thống chính trị theo đúng tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”(8) nhằm mục tiêu cao nhất là tối đa hóa giá trị tạo ra và nâng cao chất lượng phục vụ người dân. Thiết kế và vận hành bộ máy trong hệ thống chính trị dựa trên nguyên tắc khoa học tổ chức, phù hợp thực tiễn và bảo đảm hiệu năng tối ưu của toàn hệ thống. Đặc biệt, việc thiết kế phải bảo đảm mỗi tổ chức công trong hệ thống được đặt đúng vị trí, đúng vai trò và đúng chức năng, để bộ máy công quyền thật sự là một cỗ máy tạo ra giá trị, kiến tạo sự phát triển bền vững của quốc gia.

Trước hết, tập trung vào sắp xếp lại bộ máy, giảm thiểu đầu mối trung gian, phân định rõ thẩm quyền, loại bỏ sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, cắt khúc theo phương châm: Rõ việc, rõ người, rõ nhiệm vụ, rõ trách nhiệm. Đồng thời, để tăng tính minh bạch và hiệu lực, cần áp dụng nguyên tắc trách nhiệm giải trình và cơ chế đánh giá dựa trên kết quả công việc. Xây dựng và áp dụng các bộ chỉ số đo lường và đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động của tổ chức công.

Ngoài ra, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền, với phương châm “địa phương quyết - địa phương làm - địa phương chịu trách nhiệm”, nhằm gia tăng tính chủ động của địa phương và tối ưu hóa quá trình ra quyết định. Song song với đó, cần thực hiện nghiêm việc kiểm soát quyền lực, siết chặt kỷ cương và kỷ luật, kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực và “lợi ích nhóm” trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật.

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” không chỉ là nhiệm vụ cấp bách, mà còn là nền tảng để xây dựng một hệ thống quản trị quốc gia hiện đại, vững mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập của Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Những giải pháp này sẽ giúp phát huy tối đa sức mạnh của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực quản trị của Nhà nước và bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền, tạo đà phát triển bền vững để đưa đất nước tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.

Bốn là, nâng cao năng lực và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức.

Nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, không chỉ có năng lực chuyên môn cao, mà còn phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, thể hiện trách nhiệm giải trình trước người dân và xã hội. Nền công vụ được vận hành bởi đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài. Thực hiện đánh giá cán bộ, công chức dựa trên kết quả công việc thông qua các chỉ số đo lường và thực chất. Kiên quyết đưa ra khỏi nền công vụ những người không làm được việc. Đội ngũ cán bộ, công chức trong nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả phải thực sự là tầng lớp tinh hoa, ưu tú của xã hội để quản trị xã hội. Có chính sách tiền lương, tạo động lực làm việc, để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác, phát huy giá trị xã hội của nghề công chức, luôn toàn tâm, toàn ý cho lý tưởng, khát vọng “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

Năm là, tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.

Trước hết, cần phát triển và ứng dụng các nền tảng số dùng chung, bảo đảm kết nối liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quy trình làm việc, quản lý dữ liệu, cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình ở mức độ cao, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Việc khai thác trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và các công nghệ tiên tiến sẽ giúp nâng cao năng lực phân tích, dự báo, hỗ trợ ra quyết định nhanh chóng, kịp thời. Cùng với đó, cần bảo đảm an ninh mạng, an toàn dữ liệu quốc gia và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực số, thành thạo về kỹ năng số. Đây là bước đi chiến lược để nền quản trị quốc gia thích ứng nhanh với bối cảnh chuyển đổi số, đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại và phát triển bền vững.

Sáu là, huy động sự tham gia của các chủ thể vào quản trị quốc gia.

Huy động được mọi nguồn lực, mọi chủ thể trong xã hội tham gia vào quản trị quốc gia là chìa khóa để tối đa hóa sức mạnh tổng hợp của xã hội, thúc đẩy quản trị hiệu quả, bền vững. Để thực hiện điều này, cần xây dựng cơ chế pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức xã hội và các đoàn thể tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Cùng với đó, đẩy mạnh công khai, minh bạch thông tin, khuyến khích vai trò giám sát của xã hội; từ đó, gia tăng sự đồng thuận và trách nhiệm chung. Mỗi chủ thể trong xã hội, theo vai trò, chức năng của mình, cùng nỗ lực tối đa đóng góp giá trị cho sự phát triển quốc gia theo phương thức: Xã hội cung cấp nguồn lực, thị trường phân bổ nguồn lực, Nhà nước kiến tạo thể chế và điều tiết nguồn lực hợp lý. Mọi chủ thể đồng lòng, chung sức sẽ tạo nền tảng vững chắc cho khát vọng phát triển quốc gia, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu đổi mới ở Việt Nam./.

---------------------

(1) Xem: GS, TS Tô Lâm: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-11-2024,  https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 203
(3) Xem: Nguyễn Bá Chiến: “Thực hiện quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả để đất nước vươn mình”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 15-11-2024, https://special.nhandan.vn/quan-tri-quoc-gia-hien-dai-de-dat-nuoc-vuon-minh/index.html
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 148
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 150
(6) GS, TS Tô Lâm: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd
(7) Xem: “Toàn văn: Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV”, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 21-10-2024,  https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-phien-khai-mac-ky-hop-thu-8-quoc-hoi-khoa-xv-119241021113227895.htm
(8) Xem: GS, TS Tô Lâm: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 5-11-2024,  https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tinh-gon-manh-hieu-nang-hieu-luc-hieu-qua

 

- Nguồn: tapchicongsan.org.vn - 

Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image




Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
Đăng nhập