Phương pháp phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm và kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của Đảng bộ Khối các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh
1.Đặc điểm tình hình:
Đảng bộ Khối các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh
hiện có 122 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, trong đó gồm 53 Đảng bộ và 69 chi bộ
cơ sở; có 09 đảng bộ bộ phận (có 47 chi bộ trực thuộc) và 360 chi bộ trực thuộc
đảng bộ cơ sở. Các tổ chức đảng được thành lập ở các cơ quan Ban đảng, đoàn
thể, các sở, ban, ngành, các đơn vị sự nghiệp, Doanh nghiệp của Tỉnh và một số
doanh nghiệp, cơ quan Trung ương quản lý đóng trên địa bàn tỉnh. Đảng bộ Khối
không có chính quyền cùng cấp. Tuy chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị
khác nhau nhưng đều có vai trò, nhiệm vụ là tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Trong 122 tổ chức cơ sở đảng, trong đó: Tổ chức đảng
trong cơ quan Đảng, MTTQ và tổ chức chính trị xã hội là 14 (3 đảng bộ và 11 chi
bộ), trong cơ quan Nhà nước 34 (28 đảng bộ và 6 chi bộ), trong đơn vị sự nghiệp
14 (3 đảng bộ và 11chi bộ), trong doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn là 08
(4 đảng bộ và 4 chi bộ), trong doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn là 15
(5 đảng bộ và 10 chi bộ), trong doanh nghiệp Nhà nước lắm giữ dưới 50% vốn là
07 ( 4 đảng bộ và 3 chi bộ), trong doanh nghiệp không có vốn Nhà nước là 30
(Cty CP 13, doanh nghiệp tư nhân 12, Cty TNHH 4, Cty Liên doanh 1).
Tổng số đảng viên toàn đảng bộ hiện có 7.266 đồng chí,
trong đó: Đảng viên trong tổ chức đảng cơ quan Đảng, MTTQ và tổ chức chính trị
xã hội là 386 đồng chí, đảng viên trong tổ chức đảng cơ quan Nhà nước là 2.538
đồng chí, đảng viên trong tổ chức đảng đơn vị sự nghiệp là 1.771 đồng chí, đảng
viên trong tổ chức đảng thuộc doanh nghiệp là 2.571 đồng chí.
2. Về thực trạng:
Thời gian qua việc kiểm tra tổ chức đảng và
đảng viên kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm luôn được cấp ủy,
tổ chức đảng và UBKT các cấp quan tâm, tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi
phạm. UBKT các cấp đã có nhiều cố gắng trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra dấu
hiệu vi phạm. Từ đầu nhiệm kỳ 2020-2025 đến nay, cấp ủy, UBKT các cấp đã kiểm
tra khia có dấu hiệu vi phạm được 05 tổ chức đảng và 07 đảng viên (UBKT Đảng ủy Khối kiểm tra được 02 tổ chức
đảng và 01 đảng viên; cấp cơ sở kiểm tra 03 tổ chức đảng và được 06 đảng viên).
Kết quả, đã tiến hành xem xét, xử lý kỷ luật 06 đảng viên; 05 tổ chức đảng và
01 đảng viên phải kiểm điểm rút kinh nghiệm. Qua đó, đã góp phần giữ nghiêm kỷ
luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cấp ủy các cấp đã quan tâm công tác
phòng ngừa và nâng cao nhận thức, trách nhiệm, ý thức chấp hành kỷ luật của
Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong đội ngũ cán bộ đảng viên. Tuy nhiên số lượng
các cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm còn ít so với số lượng tổ chức đảng
và đảng viên của đảng bộ hiện nay; trong khi dư luận cho rằng những hành vi vi
phạm kỷ luật của Đảng; chính sách, Pháp luật của Nhà nước không hề giảm.
Kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên cùng cấp
khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp và gặp nhiều trở ngại
vì:
- Nhận thức của một số cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy về
công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm chưa đầy đủ theo quy định.
- Đối tượng sợ bị kiểm tra, sợ ảnh hưởng đến uy tín, ảnh
hưởng đến thành tích nên thường xuất hiện tâm lý mặc cảm, phản ứng, đối phó,
thiếu hợp tác, thiếu trung thực và không tự giác nhận lỗi.
- UBKT các cấp thiếu quyết tâm, chưa tích cực trong công
tác tham mưu đề xuất, đề ra giải pháp nắm bắt thông tin liên quan đến đối tượng
thông qua nguồn thông tin từ báo chí, dư luận xã hội; các đơn thư dấu tên,
không rõ địa chỉ.
Chưa
thấy hết được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc kiểm tra dấu hiệu vi phạm là một
trong những biện pháp phòng ngừa, răn đe hiệu quả nhất. Mặt khác còn quá thận
trọng, cầu toàn thông tin nên không tiến hành kiểm tra kịp thời dẫn đến tiểm ẩn
nguy cơ vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
3. Phương pháp phát
hiện, xác định dấu hiệu vi phạm:
3.1. Nguồn để năm bắt thông tin
- Việc thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám
sát của cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở, các ban, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể.
- Việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cấp ủy viên,
thành viên các tổ chức đảng, các ban, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
- Báo cáo tự phê bình và phê bình của của tổ chức đảng và
đảng viên, báo cáo kết quả bình xét đảng viên và tổ chức đảng. Báo cáo kết quả
công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng.
- Báo cáo kiển nghị của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới.
- Kết quả khảo sát, thăm dò, thống kế, phân tích, tổng
hợp dấu hiệu vi phạm của UBKT các cấp đối với cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên
cấp dưới.
- Đơn thư, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh, góp ý của đảng
viên và quần chúng. Thông tin phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng
và dư luận.
3.2. Phương pháp xử lý thông tin
Thu thập đầy đủ thông tin, tài liệu về dấu hiệu vi phạm
của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể. Thực hiện việc giám sát thường xuyên đối với cấp ủy, tổ chức đảng và
đảng viên cấp dưới. Nghiên cứu, thu thập đầy đủ thông tin, tài liệu thông qua các
cuộc kiểm tra và do các các tổ chức có liên quan cung cấp; qua việc tham gia
các đoàn kiểm tra, giám sát; đoàn công tác của cấp ủy, cơ quan tham mưu của cấp
ủy cùng cấp hoặc cấp dưới; tham gia các đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát của
tổ chức Nhà nước. Thông qua trao đổi trực tiếp với đảng viên, quần chúng. Kết
quả giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề và báo cáo kết quả công tác kiểm
tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới.
3.3. Xác định dấu hiệu vi phạm
Tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên được xác định là có
dấu hiệu vi phạm khi nội dung thông tin, tài liệu phản ánh về vi phạm đã có căn
cứ, cơ sở thể hiện rõ: Tên, địa chỉ, thời điểm, nội dung dấu hiệu vi phạm của
cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên. Trường hợp nội dung dấu hiệu vi phạm
đã có cơ sở xác định nhưng đối tượng chưa rõ thì căn cứ vào các quy định hiện
hành của Đảng và Nhà nước để xác định, làm rõ đối tượng có dấu hiệu vi phạm.
4. Công tác kiểm tra
tổ chức đảng hoặc đảng viên khi có dâu hiệu vi phạm.
Từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng, quy định UBKT các cấp
kiểm tra đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) hoặc tổ chức đảng cấp dưới khi
có dấu hiệu vi phạm. Tức là đã chuyển từ kiểm tra đảng viên chấp hành sang kiểm
tra tổ chức đảng hoặc đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Điều đó làm cho tính
tích cực phòng ngừa của công tác kiểm tra được nâng lên. Bổ sung thẩm quyền thi
hành kỷ luật của UBKT từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên được quyết định
thi hành kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cấp ủy viên cùng cấp quản lý
và cấp ủy viên cấp dưới trực tiếp; thẩm quyền đó vẫn được duy trì thực hiện đến
hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng trong tình
hình mới.
Theo Quy định tại Điều 32-Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam
(Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011), UBKT các cấp có 06 nhiệm vụ,
trong đó có 02 nhiệm vụ về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Nhiệm
vụ thứ nhất là: “Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có
dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong thực
hiện nhiệm vụ đảng viên”. Nhiệm vụ thứ hai là: “Kiểm tra tổ
chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành cương lĩnh
chính trị, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng”. Do xác định đó là nhiệm vụ trọng
tâm, nên trong thực tế tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của UBKT các cấp đã
thực hiện khá tốt nhiệm vụ này. Với thực trạng trên, cho thấy tất cả những tổ
chức đảng và đảng viên được kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm thì phát hiện đều
có vi phạm. Vậy vấn đề đặt ra, phải chăng việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
là đồng nghĩa với việc xử lý? Nếu không có lý giải thấu đáo sẽ dẫn đến hậu quả
là gây tâm lý hoang mang, thậm chí là đối phó của đối tượng được kiểm tra và
cho rằng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm là đồng nghĩa với việc xử lý. Trước
hết cần hiểu đúng khái niệm theo quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26 tháng 7 năm 2016
của Ban Chấp hành Trung ương thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đang về
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng (khóa XII), là “ Khi có dấu hiệu
vi phạm đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên là khi có những thông tin, tư liệu
thu thập được đối chiếu với các quy định của Đảng, MTTQ và các tổ chức chính
trị xã hội mà đảng viên tham gia, với Pháp luật của Nhà nước có căn cứ cho thấy
tổ chức đảng hoặc đảng viên đó không tuân theo, không làm hoặc làm trái một số những điều quy định của Đảng, Nhà nước, MTTQ và
các tổ chức chính trị xã hội”.
Như vậy, khi có dấu hiệu vi phạm mới chỉ là hiện tượng
chưa phải là bản chất nên khi tiến hành kiểm tra và có kết quả kiểm tra cụ thể,
kết luận có sai phạm thì tổ chức đảng, đảng viên đó mới có vi phạm cần xem xét,
xử lý. Còn khi chưa được cấp có thẩm quyền kiểm tra đưa ra kết luận thì các
hành vi có biểu hiện sai trái của tổ chức đảng, đảng viên chỉ được xem là “có
dấu hiệu vi phạm”.
Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp kiểm tra tổ chức
đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm nhưng thực chất là kiểm tra vi phạm vì
hành vi vi phạm đã rõ, đã xảy ra hoặc diễn ra trong thời gian dài. Bởi vậy vấn
đề đặt ra cho UBKT các cấp là phải chủ động, kịp tời phát hiện dấu hiệu vi phạm
và khi phát hiện dấu hiệu vi phạm phải tiến hành kiểm ta. Nếu để xảy ra vi phạm
mới tiến hành kiểm tra thì không mang tính phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm ngay
từ khi mới manh nha. Có tình trạng như vậy là do một số tổ chức đảng buông lỏng
quản lý, giáo dục, kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên thường xuyên; thậm trí
còn né tránh, ngại va chạm nên cá dấu hiệu vi phạm chậm được phát hiện, dẫn tới
vi phạm nghiệm trọng kỷ luật của Đảng, Pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy
UBKT Trung ương đã chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy, UBKT các cấp phải chủ động tiến
hành kiểm tra tổ chức đảng hoặc đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, không để kéo
dài gây tác động xấu đến nội bộ Đảng và xã hội.
Mục đích của công tác kiểm tra tổ chức đảng hoặc đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm là làm cho Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách Pháp luật của Nhà nước
được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn nhằm hoàn thành nhiệm vụ chính
trị. Hiểu đúng và thực hiện tốt kiểm tra tổ chức đảng hoặc đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm sẽ giúp UBKT các cấp tăng tính chủ động trong xác định sớm các dấu
hiệu vi phạm và tránh được tình trạng áp đặt, thậm trí là định kiến với đối
tượng được kiểm tra khi cho rằng kiểm tra tổ chức đảng hoặc đảng viên khi có
dấu hiệu vi phạm là để xử lý kỷ luật. Như vậy là góp phần thực hiện phương châm
của Ngành kiểm tra “Không để khuyết điểm trở thành vi phạm, vi phạm ít thành vi
phạm nghiêm trọng; vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người, của tổ
chức Đảng.
5. Những giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra tổ chức đảng hoặc đảng viên khi có dấu hiệu
vi phạm:
Một là: Cấp ủy và UBKT các cấp phải coi trọng và thực hiện
nghiêm nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng quy định; thường
xuyên quán triệt sâu rộng các nghị quyết, chỉ thị và các quy định, hướng dấn
của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát
nói chung và công tác kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
nói riêng; nhằm làm cho mọi cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp và đảng viên
nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng, quy trình và phương
pháp kiểm tra để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động, làm cho công
tác kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm đạt chất lượng và
hiệu quả.
Hai là: UBKT các cấp cần chủ động thực hiện công tác giám sát,
kết hợp nhiều kênh thông tin, phát hiện, xác định, nhận định chuẩn xác dấu hiệu
vi phạm mà tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm, dễ phát sinh vi phạm, có
nhiều bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân. Bảo đảm UBKT các cấp đều thực
hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng
viên nhất là đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý. Quyết định kiểm tra cần
đúng thời điểm, đúng đối tượng và đúng nội dung.
Ba là: Trên cơ sở các quy định của Đảng về nguyên tắc, phương
pháp, quy trình kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm cần có
sự phối hợp giữa cấp ủy, tổ chức Đảng, UBKT các cấp với các cơ quan, tổ chức có
liên quan trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng và chỉ
đạo thực hiện có hiệu quả. Cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp căn cứ quy trình
kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm ở cấp mình cho phù hợp
với điều kiện thực tế. Xây dựng kế hoạch từng cuộc kiểm tra đúng quy định, có
chất lượng; chú trọng nâng cao kỹ năng nhận diện, phát hiện sớm dấu hiệu vi
phạm, kỹ năng thẩm tra, xác minh trong những lĩnh vực đặc thù.
Bốn là: Chú trọng kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ
máy UBKT và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp của
cán bộ kiểm tra. Có cơ chế, chính sách khuyến khích và bảo vệ cán bộ kiểm tra.
Quan tâm tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật để UBKT thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ kiểm tra theo quy định./.
Ngô Đức Hiền
Ủy viên BCH
Đảng bộ, Phó CN UBKT Đảng ủy Khối