Phát triển thị trường lao động Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế
Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi theo nguyên tắc thỏa thuận
về việc làm và nghỉ ngơi, tiền công/tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ
sinh lao động và các điều kiện làm việc khác để ký kết hợp đồng lao động giữa
người lao động và người sử dụng lao động. Hiện nay, thị trường lao động Việt
Nam phát triển theo hướng hiện đại, đầy đủ và từng bước tiếp cận với các chuẩn
mực quốc tế với tinh thần chủ động và tích cực.
Nhận thức về thị trường lao động Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập
quốc tế
Thị
trường lao động (TTLĐ) hình thành và phát triển trong tổng thể phát triển nền
kinh tế thị trường. Xu hướng chung của các nước trên thế giới có nền kinh tế
thị trường đều dựa trên nền tảng phát triển đồng bộ các loại thị trường cơ bản,
trong đó có TTLĐ. E. Robert, trong tác phẩm “Kinh tế lao động” (xuất bản năm
1991), cho rằng, TTLĐ là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ thống
các thị trường của nền kinh tế thị trường. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
khóa XII của Đảng “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” xác định: Thị trường lao động là một trong những thị trường quan
trọng của kinh tế thị trường. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
khẳng định: Thị trường (bao gồm TTLĐ) đóng vai trò quyết định trong xác định
giá cả hàng hóa, dịch vụ, tạo động lực huy động, phân bố các nguồn lực.
Công nhân vận hành dây
chuyền sản xuất sợi hiện đại ở Việt Nam (ảnh: Nguyễn Thiện Tín)_Nguồn:
vapa.org.vn
Phát
triển TTLĐ Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế là nhằm đạt tới một
TTLĐ có khả năng vận hành đồng bộ, thông suốt và hiệu quả trên phạm vi cả nước;
có sự kết nối TTLĐ với các thị trường khác trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, TTLĐ trong nước với TTLĐ của các nước trong khu vực và
trên thế giới; góp phần huy động, phân bố và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao
động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đáp ứng quá trình cơ cấu lại nền kinh tế
theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm người lao động có
việc làm bền vững.
Các
đặc trưng chủ yếu của TTLĐ Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập là: 1- Thị
trường lao động hoạt động theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường,
nhất là quy luật cung - cầu lao động, quy luật cạnh tranh công bằng trong lao
động... Đồng thời, có sự kết nối, liên thông, không rào cản giữa các khu vực,
các vùng trong nước và với ngoài nước trong quá trình hội nhập; 2- Sức lao động
được giải phóng triệt để. Người lao động được tự do lựa chọn việc làm, tự do
đối thoại, thương lượng, thỏa thuận với người sử dụng lao động trong quan hệ
lao động để ký kết hợp đồng lao động, tự do dịch chuyển trên TTLĐ...; 3- Lao
động là yếu tố đầu vào của sản xuất (đường cung lao động) có mối quan hệ tương
tác chặt chẽ với cầu lao động (đường cầu lao động), nhưng người lao động, nhất
là người lao động có kỹ năng, là yếu tố quyết định nhất của sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ trong kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập; 4- Quan
hệ cung - cầu lao động trên TTLĐ là quan hệ thỏa thuận giữa các bên về các nội
dung quan hệ lao động theo những tiêu chuẩn lao động cơ bản tiếp cận các chuẩn
mực quốc tế do Nhà nước quy định (về việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an
toàn, vệ sinh lao động và các điều kiện làm việc khác) làm căn cứ cho các bên
quan hệ lao động thương lượng, thỏa thuận, định đoạt và tự chịu trách nhiệm; người
lao động có cơ hội bình đẳng tham gia TTLĐ để có thể tìm việc làm bền vững; 5-
Đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về các nội dung quan hệ lao động của các
chủ thể quan hệ lao động theo cơ chế ba bên ở cấp ngành hay quốc gia (đại diện
người sử dụng lao động, đại diện người lao động và Nhà nước) và theo cơ chế hai
bên ở cấp doanh nghiệp (đại diện người sử dụng lao động và đại diện người lao
động) phải bảo đảm tính độc lập, công khai, minh bạch và thực chất; 6- Thị
trường lao động hoạt động theo các quy luật khách quan nhưng không tuyệt đối
hóa sự điều tiết bởi “bàn tay vô hình”, mà có sự điều tiết của Nhà nước thông
qua các công cụ quản lý và hỗ trợ để phòng ngừa, giải quyết những trục trặc,
thất bại của thị trường, nhất là khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí
hậu và dịch bệnh, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,... tác động tiêu cực
đến hoạt động bình thường hoặc kìm hãm sự phát triển của TTLĐ.
Thực trạng thị trường lao động Việt Nam hiện nay
Trong
quá trình đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề phát triển TTLĐ đặt ra rất cấp
thiết. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, quán triệt và thể
chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban hành
chính sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý phát triển TTLĐ, từng bước tiếp cận
các chuẩn mực quốc tế trong quá trình hội nhập. Điều này thể hiện rất rõ trong
hệ thống pháp luật kinh tế(1) phù hợp với nền kinh tế thị
trường. Đặc biệt, các quy định pháp luật về TTLĐ được thể hiện cụ thể trong
Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Luật
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Bảo hiểm
xã hội, Luật Bảo hiểm y tế,... tạo khung pháp lý phát triển TTLĐ; qua đó, về cơ
bản, đã hình thành thể chế TTLĐ mới theo hướng giải phóng sức lao động,
tự do hóa trong lao động và thực hiện công bằng xã hội; bảo đảm TTLĐ hoạt
động theo đúng nguyên tắc thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước để kết nối
cung - cầu lao động, nhiều người có việc làm tại TTLĐ trong nước và ngoài nước,
sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.
Sau
hơn 35 năm đổi mới đất nước TTLĐ Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả về
quy mô và chất lượng, từng bước hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế:
Một
là, về
cầu lao động, từ thành tựu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, nền kinh tế Việt Nam không ngừng phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ
và hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới trên “sân chơi” toàn cầu.
Cầu lao động trên TTLĐ không ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu
ngành, nghề theo hướng hiện đại, từng bước tạo việc làm đầy đủ, bền vững hơn
cho người lao động.
Hai
là, về
cung lao động, hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp phát triển được chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu
cầu của TTLĐ để phát triển nguồn nhân lực về số lượng, liên thông giữa các cấp
trình độ, từng bước nâng cao chất lượng, góp phần tạo cung lao động có trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, từng bước tiếp
cận tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và thế giới, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của TTLĐ.
Ba là, thay đổi căn bản phương
thức tuyển dụng, sử dụng lao động khu vực thị trường trên cơ sở giao kết hợp
đồng lao động. Thực hiện cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận giữa các
bên về quan hệ lao động (việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ
sinh lao động và các điều kiện làm việc khác) phù hợp với kinh tế thị trường.
Hình thành từng bước quan hệ (cơ chế) hai bên (ở cấp cơ sở) và quan hệ (cơ chế)
ba bên ở cấp quốc gia, cũng như tổ chức đại diện các bên (Nhà nước, người sử
dụng lao động và người lao động) trong quan hệ lao động, bảo đảm hài hòa lợi
ích các bên. Tranh chấp lao động và đình công được giải quyết theo trình tự và
thủ tục quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của các bên trong quan hệ lao động.
Bốn
là, hệ
thống dự báo cung - cầu lao động, thông tin TTLĐ, dịch vụ việc làm được thiết
lập thực hiện chức năng tư vấn, kết nối cung - cầu lao động, giới thiệu việc
làm, cung ứng lao động trên TTLĐ trong nước và ngoài nước.
Năm
là,
TTLĐ trở thành động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang làm việc khu vực sản xuất hàng hóa,
kinh tế, có quan hệ lao động. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, đến năm 2020,
lao động làm việc trong ngành nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 32,8%, tỷ lệ lao
động làm việc trong ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 77,2%. Người lao
động có nhiều cơ hội việc làm trên TTLĐ. Theo đó, hằng năm, thị trường lao động
tạo thêm việc làm mới cho khoảng 1,6 triệu lao động. Việt Nam từ một nước dư
thừa lao động, đến giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ tăng trưởng việc làm đã đạt mức
cân bằng và cao hơn tỷ lệ tăng trưởng lực lượng lao động. Tỷ lệ lao động có
việc làm khu vực chính thức (có quan hệ lao động) tăng bình quân 5,6%/năm giai
đoạn 2016 - 2019. Tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp, từ 2,0% đến 2,2%; tỷ lệ
thất nghiệp thành thị luôn dưới 3,5%.
Tuy
nhiên, TTLĐ Việt Nam còn
những hạn chế, chưa bắt kịp chuẩn mực nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ
và hội nhập quốc tế, thể hiện:
Thứ
nhất,
chính sách TTLĐ chưa hoàn thiện và chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi
nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm theo hướng bền vững.
Thiếu chính sách cụ thể phát triển TTLĐ bảo đảm giải phóng triệt để sức lao
động, tự do hóa mạnh trong lao động để người lao động được tự do hành nghề, tự
do dịch chuyển, tự do lựa chọn việc làm trên TTLĐ theo nhu cầu và khả năng. Vẫn
còn những rào cản về quản lý và thủ tục hành chính bảo đảm tự do di chuyển của
lao động trên TTLĐ trong nước và ngoài nước trên một sân chơi công bằng, bình
đẳng.
Thứ
hai,
TTLĐ có sự phân mảng giữa các vùng, khu vực và ngành, nghề. Còn bỏ ngỏ quản lý
và kết nối với phân khúc TTLĐ trong kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế
tự do dựa trên nền tảng trực tuyến áp dụng công nghệ thông tin (bán hàng trực
tuyến, giao nhận hàng hóa, lái xe công nghệ,...) đang có xu hướng phát triển.
Thị trường lao động trong kinh tế nông nghiệp, nông thôn, khu vực phi chính
thức và TTLĐ trình độ cao gắn kết với thị trường khoa học và công nghệ chưa
phát triển mạnh...
Thứ
ba,
quan hệ cung - cầu lao động trên TTLĐ cần phát triển theo hướng đòi hỏi cung
lao động có chất lượng hơn để đáp ứng cầu lao động của
nền kinh tế hiện đại và hội nhập. Các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia của Việt
Nam chậm được ban hành, nhiều nghề trọng điểm chưa có tiêu chuẩn kỹ năng nghề
quốc gia, một số nghề tiêu chuẩn còn thấp so với tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu
vực và các nước phát triển trên thế giới; việc tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ
kỹ năng nghề chưa được triển khai rộng rãi. Do đó, trên thực tế, một số lao
động đã qua đào tạo, giáo dục nghề nghiệp nhưng chất lượng còn thấp. Đặc biệt,
tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động trong
một số ngành công nghiệp mới, nhất là khi Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới.
Cơ
chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận các bên trong quan hệ lao động cấp
doanh nghiệp chưa hoàn thiện; thiết chế giải quyết tranh chấp lao động và đình
công chưa phù hợp với thực tế, nên hầu hết các cuộc đình công diễn ra chưa đúng
với quy định của pháp luật. Hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp chưa
hoàn chỉnh và chưa gắn kết chặt chẽ với hệ thống an sinh xã hội,
chưa thích ứng với quá trình già hóa dân số và sự xuất hiện các loại hình kinh
tế mới, như kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tự do trên nền tảng
trực tuyến... Lao động trong phân khúc TTLĐ này chưa được tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
Thứ
tư, kết
cấu hạ tầng dịch vụ TTLĐ chưa hiện đại; năng lực dự báo cung - cầu lao động còn
hạn chế; cơ sở dữ liệu TTLĐ chưa đầy đủ và cập nhật; hệ thống dịch vụ việc làm
kết nối TTLĐ trong nước với TTLĐ quốc tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của cả người sử dụng lao động và người lao động trong nước cũng như ngoài nước.
Định hướng phát triển đến năm 2030
Bước
sang giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đại hội XIII của
Đảng xác định: Phải tạo bước phát triển mới cho đất nước với mô hình tăng
trưởng dựa trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học - công
nghệ và đổi mới sáng tạo. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, Việt Nam là nước đang
phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung
bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa tuân thủ các quy
luật, nguyên tắc của thị trường trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, vừa có
sự điều tiết, quản lý của Nhà nước; tạo ra các động lực và mũi nhọn tăng trưởng
cao; xử lý các thất bại của thị trường để bảo đảm quyền con người trong lao
động, việc làm bền vững, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Việt
Nam đã hình thành và ngày càng phát triển các loại hình kinh tế đa dạng, phân
chia theo các khu vực: Kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân/hộ gia đình và kinh tế
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); kinh tế chính thức với việc làm có
quan hệ lao động và không chính thức, tự làm không có quan hệ lao động; kinh tế
tuần hoàn, kinh tế chia sẻ..., và như vậy, vẫn có nhiều phân khúc TTLĐ. Sự
chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ tiếp tục theo hướng chuyển mạnh sang lao động
sản xuất hàng hóa, khu vực kinh tế chính thức, FDI và một bộ phận lao động vào
làm việc trong nền kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ... Việt Nam cũng là nước
có độ mở ngày càng lớn của kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập, tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và phân công lao động quốc tế. Với thành tựu khoa học và công
nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, Việt Nam đang có bước
chuyển sang thời kỳ số hóa nền kinh tế và quản lý, quản trị xã hội là yếu tố
rất quan trọng để hình thành và phát triển các ngành kinh tế đa dạng theo xu
hướng chung của kinh tế thế giới.
Đội
tuyển Việt Nam dự thi và giành Huy chương Vàng tại Cuộc thi Kỹ năng nghề cơ
điện tử online châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức theo hình thức trực tuyến
gồm Việt Nam và các quốc gia: Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Singapore,
Malaysia_Ảnh: TTXVN
Để
phát triển TTLĐ Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa XII định hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao
động và cơ cấu ngành, nghề. Đại hội XIII của Đảng chủ trương phát triển thị
trường lao động, hướng đến việc làm bền vững. Quán triệt chủ trương, định hướng
này, Chính phủ có Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 5-2-2021, về việc “Ban
hành Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030” theo
hướng tiếp cận chuẩn mực nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập
quốc tế với mục tiêu chung và quan điểm định hướng như sau:
Về
mục tiêu chung: Tạo
tiền đề vững chắc cho việc xây dựng và phát triển đồng bộ các yếu tố TTLĐ, góp
phần huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, bảo
đảm kết nối TTLĐ trong nước với TTLĐ của các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Về
quan điểm định hướng:
Một
là,
phát triển TTLĐ toàn diện, bền vững theo hướng hiện đại, hiệu quả, phù hợp với
đặc điểm của từng vùng, từng địa phương làm cơ sở, động lực phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
Hai
là, Nhà
nước giữ vai trò kiến tạo và hỗ trợ phát triển TTLĐ thông qua việc hoàn thiện,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ chế chính sách, hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về phát triển TTLĐ, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để hạn chế
những rủi ro liên quan đến quyền lợi của người lao động trong bối cảnh diễn ra
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Ba
là, chủ
động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh kết nối cung - cầu lao động trong nước gắn với
TTLĐ quốc tế.
Một số giải pháp trong thời gian tới
Để
thực hiện mục tiêu, định hướng trên, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả và quyết
liệt các giải pháp:
Một
là, tiếp
tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để TTLĐ phát
triển theo hướng hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế.
Hoàn
thiện chính sách theo hướng giải phóng triệt để sức sản xuất và sức lao động,
phát huy cao nhất đóng góp của người lao động có kỹ năng cho tăng trưởng, phát
triển kinh tế, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao. Đặc biệt là tự
do hóa mạnh hơn nữa để lao động, nhất là lao động có kỹ năng được tự do lựa
chọn việc làm, tự do di chuyển trên TTLĐ, không bị rào cản bởi khu vực kinh tế,
địa giới hành chính và nơi cư trú.
Tiếp
tục nội luật hóa và quy
định cụ thể các tiêu chuẩn lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu
chuẩn lao động quốc tế (các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các
FTA thế hệ mới) mà Việt Nam cam kết và phê chuẩn.
Có
chính sách khuyến khích hình thành và phát triển nhanh TTLĐ trình độ cao (lao
động có kỹ năng trình độ cao, lao động lành nghề), tạo môi trường cho lao động
chất lượng cao tự do di chuyển giữa các ngành, vùng và lĩnh vực nhằm thúc đẩy
chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng hiện đại, phát triển
kinh tế tri thức, tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu và phân công lao
động quốc tế.
Hoàn
thiện thể chế về cơ chế hai bên, cơ chế ba bên trong quan hệ lao động; cơ chế
đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về quan hệ lao động, cơ chế giải quyết
tranh chấp lao động và đình công theo đúng nguyên tắc thị trường và có sự quản
lý, điều tiết của Nhà nước. Thể chế hóa chủ trương của Đảng về xây dựng quan hệ
lao động mới hài hòa, ổn định và tiến bộ trên tinh thần hợp tác, bảo đảm hài
hòa lợi ích giữa nhà đầu tư, người lao động, Nhà nước.
Hai
là, trên
cơ sở cầu lao động trên TTLĐ hiện đại, đầy đủ và hội nhập, cần tập trung phát
triển cung lao động thông qua đổi mới đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng
mở và linh hoạt, chuyển mạnh từ trang bị kiến thức (lý thuyết) sang phát triển
kỹ năng nghề đạt tiêu chuẩn Việt Nam, từng bước đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc
tế cho người lao động, nhất là cho lao động trẻ; phát triển đào tạo, giáo dục
nghề nghiệp gắn với nhu cầu của TTLĐ, tăng cường liên kết giữa cơ sở đào tạo,
giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp với các mô hình đa dạng, hiệu quả; chú
trọng đào tạo các kỹ năng mềm (ngoại ngữ, công nghệ thông tin, năng lực
sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm và trong môi trường đa văn hóa...).
Ba
là, phát triển lưới an sinh và
bảo hiểm trên cơ sở quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả Kết luận số
92-KL/TW, ngày 5-11-2020, của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa XI “Về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 -
2020”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII “Về cải cách chính sách bảo
hiểm xã hội”, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân. Tăng
cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính
linh hoạt, liên thông của các chính sách cho người lao động khi tham gia TTLĐ,
nhất là lao động trong kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, khu vực phi chính
thức, nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ.
Bốn
là, đầu
tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng của TTLĐ (hệ thống dự báo cung - cầu lao
động, cơ sở dữ liệu lớn TTLĐ, thông tin TTLĐ và dịch vụ việc làm) hiện đại, áp
dụng công nghệ cao. Hệ thống này cần được phát triển rộng khắp trên cả nước,
được chuyển đổi số để kết nối, liên thông TTLĐ trong nước và kết nối với TTLĐ
quốc tế.
Năm
là,
nâng cao hiệu quả quản lý, tổ chức, vận hành, hỗ trợ phát triển TTLĐ của Nhà
nước. Trong đó, Nhà nước thiết lập hành lang pháp lý cho TTLĐ phù hợp với kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiếp cận chuẩn mực quốc tế; hỗ trợ
TTLĐ phát triển (đầu tư hạ tầng dịch vụ TTLĐ, chuyển đổi số, phát triển lưới an
sinh xã hội và bảo hiểm, kết nối TTLĐ trong và ngoài nước, phát triển phân khúc
TTLĐ đặc thù, như TTLĐ trình độ cao và TTLĐ trong kinh tế tuần hoàn, kinh tế
chia sẻ,...); đổi mới và nâng cao hiệu quả thanh tra TTLĐ; phản ứng chính sách
kịp thời để xử lý những tác động không mong muốn trong hội nhập và tham gia
TTLĐ quốc tế...
Sáu
là, tăng
cường hợp tác quốc tế, nhất là với các tổ chức quốc tế như ILO, Quỹ Dân số Liên
hợp quốc (UNFPA), Ngân hàng Thế giới (WB),... và các nước phát triển, các nước
ASEAN để học tập, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho xây
dựng chính sách và tổ chức vận hành, quản trị hiệu quả TTLĐ./.
Nguồn:tapchicongsan.org.vn