Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Đường lối, quan điểm,
chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng là sự kế thừa và phát triển về tư duy, lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thật sự khoa học, có nhiều nội dung mới, kết tinh trí
tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Những đường lối, quan
điểm, chính sách này có tính khái quát cao; vừa có tính tổng kết lý luận, vừa
có ý nghĩa thực tiễn, phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta
về phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Ảnh minh hoạ
NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN MỚI
Báo cáo Chính trị tại Đại hội
XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thống nhất và nêu rõ: “Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu” dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển;
kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày
càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội”(1).
Nhận thức về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trên là sự kế thừa và phát triển nhận
thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua các Đại hội Đảng
từ khi đổi mới đến nay, chủ yếu là 10 năm từ Đại hội XI và thực hiện Cương lĩnh
bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ
nhất, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế. Sự hiện đại, hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được kế thừa, phát triển từ Đại hội XII và được thể hiện ở nhiều
nội dung, tiêu chí khác nhau như sự hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế của
thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách; sự hiện đại của quản trị quốc gia; sự
đồng bộ, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới của hệ thống các loại thị
trường, yếu tố thị trường trong nền kinh tế…
Thứ
hai, trên cơ sở phát triển nhận thức
lý luận về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ, đầy đủ hơn vị
trí, vai trò của các thành phần kinh tế, chú trọng việc gắn kết giữa các thành
phần kinh tế trong chỉnh thể nền kinh tế: Kinh tế nhà nước là công cụ, lực
lượng vật chất quan trọng để nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều
tiết dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của
cơ chế thị trường. Đây là chức năng quan trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời
cũng là điểm đặc trưng khác biệt, tiến bộ của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ
hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn, với vai trò cung cấp dịch vụ cho các
thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều
kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát
triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp
hội, liên hiệp hợp tác xã. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan
trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh
vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn
kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
là bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn
vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất
khẩu.
Thứ
ba, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao
chất lượng thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với nội dung và mục đích mới. Nếu ở Đại hội XII, việc hoàn thiện thể chế nhằm
“nâng cao hiệu lực” quản lý kinh tế và quản lý nhà nước về kinh tế, thì Đại hội
XIII nhấn mạnh mục đích xây dựng “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập”(2) và “tạo môi
trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực,
thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh”(3).
Ngoài ra, việc hoàn thiện đồng
bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tập
trung vào những tháo gỡ những điểm nghẽn, những vấn đề quan trọng đang cản trở
sự phát triển đất nước như nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây
dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch... Đồng thời, trước
yêu cầu phát triển mới, đặc biệt tác động của cuộc cách mạng lần thứ tư nhiều
ngành nghề mới ra đời cần phải có môi trường pháp lý đảm bảo cho sự phát triển.
Văn kiện Đại hội nêu rõ: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi
thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh
tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô
hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo,
cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp,
phân quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng
cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành”(4). Những điểm mới
này là một cách tiếp cận vấn đề rất thực tế, một phương hướng hợp lý, tích cực
nhằm phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh và bền vững.
Thứ
tư, phát triển đầy đủ, đồng
bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Điểm mới ở đây là khẳng định
thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa dịch vụ, kể cả các
dịch vụ công cơ bản.
Trong những năm qua, cơ chế thị
trường của chúng ta còn lúng túng, nhất là xác định giá cả đối với các dịch vụ,
nhất là dịch vụ công. Văn kiện Đại hội XIII xác định cần nhất quán thực hiện
giá thị trường, phân biệt rõ phúc lợi, ưu đãi hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đồng thời, tiếp tục nhấn mạnh phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị
trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ và sử sung các nguồn
lực. Cụ thể phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ
chức giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển thị trường
khoa học và công nghệ, phát triển đồng bộ thị trường tài chính, tiền tệ, thị
trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm…trên nền tảng công nghệ số với kết cấu
hạ tầng công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Phát triển và quản lý chặt
chẽ thị trường bất động sản; thị trường sử dụng đất. Phát triển thị trường lao
động, cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội. Phát huy vai trò của các
tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ
kinh tế thị trường. Xử lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc
lợi và an sinh xã hội, quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.
Thứ
năm, về mối quan hệ giữa nhà nước,
thị trường và xã hội trong vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, điểm mới nổi bật chính là trong mối quan hệ này bổ sung
thêm nhân tố xã hội so với nhận thức trong các Đại hội trước đó. Trong đó, nêu
rõ vai trò, chức năng của nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ
chung. Nội dung xã hội được hiện ở chỗ hỗ trợ, bổ sung, khắc phục các khiếm
khuyết cho các yếu tố nhà nước, thị trường nhằm tạo cơ chế vận hành hoàn chỉnh,
đồng bộ nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ:
“Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế,
bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đốì
lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trương hoạt động; điều tiết, định
hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sổng nhân dân, bảo vệ môi trường,
bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ
chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và
lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị
trưòng. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch
vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất
và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh
nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt
động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ
lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung
cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các
tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính
sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
trong việc thực thi pháp luật”(5).
Thứ
sáu, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Văn kiện Đại hội XIII xác định
rõ: “Giữ vững độc lập tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối chiến
lược phát triển kinh tế đất nước; Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở
thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo
đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị
trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác
động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống
phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với
các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các
lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng
giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam
kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường bồi dưỡng đào tạo cán bộ am hiểu
sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc
trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập
kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”(6).
NHỮNG
VẤN ĐỀ THỰC TIỄN MỚI
Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng đã khẳng định đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay(7), trong đó có những đánh giá khách quan, khoa
học thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Nổi bật là những thành tựu:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh
tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được
bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh
tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Nhận thức về nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp vối yêu cầu xây dựng nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các
loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế
giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh
doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp
khá sôi động. Doanh nghiệp nhà nước từng bưóc được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu
quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của
nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền
kinh tế nước ta... Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp
độ, đa dạng về hình thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương, đa
phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vôh đầu tư nước ngoài tăng mạnh,
đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước”(8).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đạt được, Đại hội XIII của Đảng cũng khách quan, thẳng thắn chỉ ra một số
hạn chế, khuyết điểm: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn nhiều vướng mắc, bất cập; nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện cơ cấu
lại và đổi mới cơ chế quản trị; phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình
độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu; nhiều doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết,
chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển; đổi mới và
phát triển kinh tế hợp tác còn chậm, nhiều hợp tác xã chưa làm tốt vai trò liên
kết, hỗ trợ kinh tế hộ; thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng
hóa, dịch vụ công còn lúng túng; một số loại thị trường, phương thức giao dịch
thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng
mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất; hội nhập kinh tế
quốc tế hiệu quả có mặt chưa cao... Những hạn chế, bất cập này được Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định cần kiên quyết khắc phục và giải quyết trong thời gian
tới.
Về dự báo bối cảnh, tình hình
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời
gian tới, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã chú trọng phân tích, cập nhật những vấn
đề mới, biểu hiện mới, xu hướng mới, yêu cầu mới, thuận lợi và khó khăn, thời
cơ và thách thức đặt ra đối với đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư phát triển nhanh, sâu rộng; tình hình thế giới, khu vực thay
đổi nhanh, có nhiều đột biến, đặc biệt là sự tác động toàn diện, mạnh mẽ của khủng
hoảng, suy thoái nghiêm trọng kinh tế thế giới, của biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, già hóa dân số, ô nhiễm môi trường… trước mắt là đại dịch Covid-19.
MỘT
SỐ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
Để hưởng đến mục tiêu đến năm
2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là
nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập
trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang
phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045,
kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao, trên cơ sở
định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cần thực hiện đồng bộ một số giải
pháp cơ bản:
Một
là, tập trung rà soát, sửa đổi
những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp, các
thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân, gây phân biệt
đối xử giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên những rào cản
cản trở sự phát triển đất nước. Đồng thời, bổ sung luật pháp, cơ chế, chính
sách thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh,
cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, công khai, minh
bạch, thông thoáng để thu hút đầu tư, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, nhất là việc tạo môi trường thuận lợi cho hình thành, phát
triển hệ sinh thái khởi nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo doanh
nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực, những mô
hình sản xuất kinh doanh mới, công nghệ mới, sản phẩm mới trên cơ sở những
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển
đổi mô hình tăng trưởng; cơ cấu lại nền kinh tế để nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước thực hiện chuyển đổi
số cho các ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế số, kinh thế tuần hoàn, kinh tế
chia xẻ, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.
Hai
là, hoàn thiện thể chế về huy
động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, nguồn vốn
đầu tư của Nhà nước để việc phẩn bổ các nguồn lực của Nhà nước được thực hiện
theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia
của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Ba
là, hoàn thiện thể chế
phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất
quán cơ chế giá trị thị trường với các hàng hóa, dịch vụ, kể cả giá các dịch vụ
công cơ bản, thu hẹp giá do nhà nước quyết định. Phát triển đồng bộ, với cơ sở
hạ tầng và phương thức giao dịch hiện đại, các loại thị trường hàng hóa, dịch
vụ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường
lao động, thị trường bất động sản để các thị trường vận hành thông suốt, kết
nối thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Bốn
là, giải quyết hài hòa mối quan hệ
Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phát huy đầy đủ vai trò của thị trường trong phân bổ
các nguồn lực sản xuất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết
hoạt động của doanh nghiệp và thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Đồng thời, tiếp
tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước; tập trung vào nâng
cao chất lượng xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch; đẩy mạnh cải cách hành chính; giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiến
tạo phát triển. Tạo điều kiện và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã
hội bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên, hội viên, phản biện, góp ý luật
pháp, chính sách của nhà nước, giám sát các doanh nghiệp, các cơ quan và đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức của nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
Năm
là, tiếp tục hoàn thiện thể chế,
thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với doanh
nghiệp nhà nước nhiệm vụ trọng tâm là đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, thoái vốn,
cổ phần hóa cơ cấu lại doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công
nghệ và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại. Đồng thời, kiểm tra giám
sát chặt chẽ không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước hỗ
trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh
nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ trang trại trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế
chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một
trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam lớn mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực,
mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc của người lao động,
và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện các trách nhiệm
xã hội. Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác công tư trong lĩnh vực xây dựng kết
cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao,
sẵn sàng chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát
triển tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Sáu
là, xây dựng, cụ thể hóa hệ tiêu
chí xác định những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với các nội dung: Về cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế: là nền
kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần; doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Về cơ chế vận hành: là
nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về trình độ phát
triển: Có lực lượng sản xuất phát triển ngày càng hiện đại; cơ cấu hợp lý; tăng
trưởng theo chiều sâu; có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao;
là nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế….
Nguồn:tuyengiao.vn