Những vấn đề đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao trong bối cảnh chuyển đổi số ở nước ta

1. Thực trạng nhân lực công nghệ cao

- Về chất lượng sinh viên tốt nghiệp các ngành công nghệ cao chưa đáp ứng yêu cu của nhà tuyển dụng

Không chỉ thiếu hụt về số lượng, vấn đề chất lượng nhân lực các ngành công nghệ cao cũng là thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi số quốc gia. Báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai 2018 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) chỉ ra, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, hầu hết các chỉ tiêu về nguồn nhân lực của Việt Nam đu đang ở thứ hạng thấp, v chỉ số nguồn nhân lực, Việt Nam xếp thứ 70/100, nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, thì Việt Nam xếp sau Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines và chỉ xếp hạng tương đương Campuchia. Về chỉ số lao động chuyên môn cao, Việt Nam thuộc nhóm cuối bảng với thứ lạng 81/100. Đây là thách thức đối với các quốc gia đang phát triển trong tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0 và thực hiện chuyền đổi số. Hiện nay, theo Bộ Thông tin và Truyền thông, chỉ có khoảng 16.500 sinh viên trong tổng số 50.000 sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành công nghệ thông tin đáp ứng yêu cu của doanh nghiệp.

Theo đánh giá thống kê của Tập đoàn Công nghệ CMC, nhu cu về nguồn nhân lực số rất cao, nhưng các trường đại học chưa đáp ứng được, về số lượng, thực tế mới đáp ứng khoảng 25% nhu cu, còn chất lượng chỉ đáp ứng 30% yêu cầu. Năm 2021, bất chấp dịch Covid-19, nhu cầu nhân lực của Samsung vẫn rất cao. Tập đoàn này đề nghị CMC cung ứng đến hàng nghìn I nhân sự. Tuy nhiên, thực tế chcó 30% nhân lực đạt yêu cầu do Samsung đề ra. Điều này cho thấy, chất lượng nhân lực số của Việt Nam còn thiếu và yếu.

Với xu hướng Cách mạng công nghiệp 4.0, Fintech đã và đang mang tới những sự đổi mới, sáng tạo làm thay đổi bộ mặt của hệ thống ngân hàng tài chính truyền thống khi chuyển sang công nghệ ngân hàng. Theo dự báo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến năm 2025, tín dụng cá nhân sẽ chiếm khoảng 24% thị trường ứng dụng công nghệ trong dịch vụ tài chính.Tuy nhiên, ngành này hin nay đang phải đối mặt với hướng thiếu hụt nhân sự chất lượng cao trong các lĩnh vực chuyên sâu gắn với ngân hàng và công nghệ. Việc chuyển đổi s ngân hàng đòi hỏi lực lượng nhân sự nắm vững v các công nghệ mới nổi. Ngun nhân lực đưc đào tạo trong nước về các lĩnh vực này chưa đáp ứng được khi các chương trình đào tạo đại hc còn thay đổi chậm so với xu thế

Hiện nay, nguồn nhân lực công nghệ sinh học của Việt Nam đang đi sâu hàng chục năm so với nhiều nưc đang phát triển. Trong lĩnh vực gen thì con số đào tạo cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này cũng còn hạn chế. Tuy chưa có con số thng kê chính xác, nhưng với xu hướng chọn ngành khi thi đại học như hiện nay, chắc  chn rằng, số lượng nhân lực cho công nghệ sinh học cũng chưa I mấy khả quan. Trong khi đó, cùng với công nghệ thông tin, ng nghệ sinh học được coi là làn sóng thứ 5 trong lịch sử phát triển của khoa học và công nghệ, chúng ta đang thiếu các cán bộ đầu đàn giỏi, xứng tấm để điểu khiển dàn nhạc công nghệ sinh học nông nghiệp một cách nhịp nhàng, giải quyết được những hạn chế, tn tại mà lĩnh vực công nghệ sinh học đang gặp phải". Chính vì vậy, mặc dù mạng lưới các phòng thí nghiệm v công nghệ sinh học được thành lập ở nhiu nơi, nhưng vẫn chưa có sự phối hợp chặt ch trong nghiên cứu và ứng dụng.

- Sự thiếu hụt v s lượng

Cơ hội đ Việt Nam thu hút vốn đu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực công nghệ cao rất lớn đã khiến cho nhu cầu v nhân lực trong lĩnh vực này cũng tăng cao. Đánh giá mặt bằng chung của ngun nhân lực công nghệ cao hiện nay, đại diện nhiu doanh nghiệp cho rằng, chất lượng của lực lượng quan trọng này đã phát triển nhiều so với 5 -10 năm v trước. Thế nhưng, để so sánh với khu vực và thế giới, vẫn còn độ vênh khá lớn đòi hỏi những chiến lược dài hơi.

Báo cáo về nhu cu nhân lực trên thị trường công nghệ nửa đu năm 2021 của TopDev (nền tảng tuyển dụng chuyên về ngành công nghệ hàng đu ở Việt Nam) chỉ ra rằng, trong năm 2022, Việt Nam cần đến 450.000 nhân lực trong ngành công nghệ thông tin (IT).

Theo thống kê của ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, Việt Nam hiện có hơn 240 trường đại học, trong đó gần 160 trường có chuyên ngành đào tạo kỹ thuật: công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông, an toàn thông tin. Hàng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành này vào khoảng hơn 50.000. Nếu tính cả đào tạo ngh ở bậc cao đẳng, trung cấp, con số này vào khoảng hơn 62.000. Ngun nhân lực ít ỏi này không đảm bảo cho kế hoạch chuyến đổi s quốc gia trên mọi lĩnh vực.

- Về bt cập trong khâu đào tạo và hướng nghiệp trong hoạt động đào tạo nhân lực công nghệ cao

Nguyên nhân của tình trạng có rất ít sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng khi ra trường có th làm được việc trong những lĩnh vực được đào tạo có khá nhiu. Song chc chắn có nguyên nhân đến từ những bất cập trong khâu đào tạo và hướng nghiệp cho học sinh. Thời gian qua, công tác hướng nghiệp ch tập trung vào nhóm ngành kinh tế, chưa chú trọng vào nhóm ngành công nghệ cao. Công tác hướng nghiệp cũng còn nhiu bt cập khi mi nơi làm một kiu, lực lượng hướng nghiệp viên và tài liệu đu thiếu. Vì vậy, mới có tình trạng khá nhiu sinh viên tt nghiệp ra trường không tìm được việc làm và có nhiu cử nhân, kỹ sư các trường đại học ở Việt Nam chấp nhận những công việc trái ngành hoặc làm việc trình độ thấp hơn. Theo khảo sát của một trung tâm dự báo nhân lực năm 2019, tỷ lệ học sinh chọn sai ngành học chiếm khoảng 60%. Ch có 5% học sinh có hiểu biết v ngành chọn học; 20% có hiểu biết tương đi đy đủ và 75% thiếu hiểu biết v ngh bản thân chọn học. Một khảo sát khác cũng cho kết quả, có đến 65,4% sinh viên năm thứ nhất tại một số trường đại học chưa hiểu hết về mục đích, ý nghĩa ca ngành học mình lựa chọn; 50,8% không biết học xong ra làm việc gì và nơi nào tuyển dụng. Chính thế, có đến 75,6% sinh viên cho biết, họ ít thỏa mãn với sự lựa chọn của mình.

Bên cạnh đó, chương trình đào tạo tại các trường còn tản mạn, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của xã hội. Giáo trình và bài giảng còn nặng về lý thuyết, chủ yếu dạy nguyên lý, cách giải quyết bài toán tổng quát, chưa bám sát được sự phát triển ca công nghệ tiên tiến trên thế giới. Chính vì thế, nguồn nhân lực sau đào tạo có nền tảng kiến thức lý thuyết, nhưng kỹ năng thực hành, năng lực ứng dụng còn rất hạn chế, đặc biệt là chưa được tiếp cận với công nghệ mới, tiên tiến đang diễn ra ở các doanh nghiệp nước ngoài. Nội dung, phương thức đào tạo trong nhà trường và nhu cu của các đơn vị sử dụng nguồn nhân lực còn một khoảng cách khá xa, đào tạo chưa bám sát và chưa gắn với thực tiễn về phía đơn vị sử dụng nguồn nhân lực. Quy mô đào tạo còn mang tính tràn lan, không có tính định hướng, nặng về số lượng, chưa đáp ứng thực chất theo nhu cầu. Mô hình đào tạo theo đơn đặt hàng, theo địa chỉ của các đơn vị sử dụng lao động còn ít, dẫn đến tình trạng đu ra đào tạo nguồn nhân lực thiếu cân đối với nhu cu thực tế.

2. Một số nhiệm vụ, giải pháp

Những vấn đ đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao trong bối cảnh chuyển đổi số ở nước ta hiện nay là cần những người có trình độ và kỹ năng đáp ứng được yêu cu của hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ cao, dịch vụ công nghệ cao, quản lý hoạt động công nghệ cao, vận hành các thiết bị, dây chuyn sản xuất sản phẩm công nghệ cao. Tuy nhiên, với nhiều bất cập trong khâu đào tạo, định hướng nghề nghiệp, nguồn nhân lực công nghệ cao ở nước ta còn gặp nhiu khó khăn, bất cập. Việc tìm ra giải pháp để có th đáp ứng nhu cu ngày càng lớn đối với nguồn nhân lực công nghệ cao  trong bối cảnh chuyển đổi số ở nước ta là một đòi hỏi hết sức cấp thiết. Để góp phn phát triển nhân lực công nghệ cao đáp ứng yêu cu chuyên đổi số ở nước ta giai đoạn tới, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực công nghệ cao

Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Bộ Thông tin và Truyn thông cn hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý chất lượng đào tạo nhân lực ngành công nghệ, ci tiến chương trình, tài liệu giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, thực hiện chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp và nhà trường kết nối doanh nghiệp với nhà trường để sinh viên được thực hành, thực tập tại doanh nghiệp cùng nhau xây dựng năng lực v đào tạo lại, đào tạo liên tục trong chuyên môn... để tránh chng chéo giữa nhà trường và doanh nghiệp.

Cn chuẩn hóa các nội dung kiến thức đào tạo một cách liên tục để đáp ứng được yêu cu đi với nhân lực ngành công ngh cao, việc chuẩn hóa này phải được thực hiện kết hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với B Thông tin và Truyền thông; giữa nhà trường và doanh nghiệp đ cp nhật kịp thời kiến thức kỹ năng mới nhất.

Ngoài việc chú trọng đào to chuyên môn, các trường, đơn vị đào tạo cn đẩy mạnh đào tạo về kỹ năng đối với sinh viên công nghệ cao, đặc biệt là các k năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp và ngoại ngữ, bởi ngoại ngữ là yếu tố then chốt và đang là điểm thắt chặt lớn nhất và là rào cản nhân lực công nghệ cao tiếp cận với kiến thức mới của thế thới và khu vực.

         Về phía cơ sở đào tạo, cần coi trọng việc nâng cao trình độc chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên, giảng viên cần được thực tế nhiều hơn tại các đơn vị sản xuất . Tiếp nữa là các cơ sở đào tạo cẩn mở rộng hơn việc hợp tác quốc tế trong đào tạo bi dưỡng và nâng cao trinh độ chuyên môn, lựa chọn những cán bộ, sinh viên đủ năng lực phẩm chất đi học tập, nghiên cứu chuyên sâu những ngàng mới của thế giới.     t

Thứ hai, tập trung làm tốt công tác hướng nghiệp đối với học sinh

Hoạt động hướng nghiệp hiện nay rất quan trọng, giúp cho học sinh, sinh viên, người lao động có điều kiện xác định nghề nghiệp tương lai trên sở đánh giá năng lực bản thân. Tuy nhiên, để làm tốt công tác này, phải có sự kết hợp đng bộ giữa cơ quan quản lý nhà nước v giáo dục và đào tạo với lao động - việc làm, như: các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề, các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động, phụ huynh, học sinh… Làm tốt được điu này sẽ giải quyết được cán cân cung - cầu lao động hợp lý.   

Bên cạnh đó, bản thân mỗi cá nhân cũng cần xác định việc học ở nhà trường chỉ là giai đoạn đu của quá trình học tập suốt là đời trong một xã hội hiện đại, nên sinh viên sau khi tốt ngiệp phải có ý thức mở rộng kiến thức ngh nghiệp, nâng cao năng lực, tư duy khoa học, độc lp, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để không ngừng phát triển kỹ năng ngh nghiệp... trong khi chờ các cơ quan chức năng có những giải pháp hỗ trợ giúp giải quyết việc làm. Có như vây, sinh viên ra trường mới không lo thất nghiệp và d dàng vượt qua được những yêu cu kht khe của doanh nghiệp.

Thứ ba, tăng cường liên kết giũa doanh nghiệp và nhà trường trong đào tạo nhân lực công nghệ cao

Hiện nay, để có ngun nhân lực công nghệ cao phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, các địa phương như TP. H Chí Minh đã triển khai nhiu chương trình, như gửi lao động đi đào tạo nước ngoài hoặc đào tạo tại các cơ sở giáo dục trong nước, liên kết đào tạo vừa học vừa làm theo nhu cu của doanh nghiệp… Chẳng hạn, Trường Đại học Bách khoa TP. H Chí Minh đã có một chương trình lựa chọn, bi dưỡng những sinh viên ưu tú nht của trường để tạo ngun nhân lực cho ngành thiết kế vi mạch, nhm cung ứng lực lượng cơ hữu cho các doanh nghiệp khi cn.    Đây là một kinh nghiệm hay cn được nhân rộng thực hiện trên phạm cả nước chứ không riêng bất kỳ một địa phương nào. Bởi vấn đ ngun nhân lực chất lượng cao khống chỉ ảnh hưởng một vài doanh nghiệp hay một vài lĩnh vực kinh tế nhất định hay một vài địa phương, mà cònvấn đ đang được xã hội quan tâm. Việc liên kết giữa các trường đại học, doanh nghiệp và viện nghiên cứu là một thực tế tất yếu khi đào tạo phải theo nhu cu, theo đơn "đặt hàng" của doanh nghiệp, cũng như các doanh nghiệp có thể yêu cu và hỗ trợ cho các trường, trung tâm đào tạo để phục vụ cho chính mình. Các trường phải liên tục cập nhật thông tin, cải cách chương trình giảng dạy, đu tư trang thiết bị mới. Với sự hợp tác tốt giữa doanh nghiệp và nhà trường thì vn đề khát nguồn nhân lực công nghệ cao sẽ được giải quyết một cách hữu hiệu trong thời gian không xa.

Thứ tư, tạo nhiều cơ chế từ phía cơ quan quản lý nhà nước nhm tạo điu kiện cho công tác đào tạo nhân lực công nghệ cao

Nhằm đáp ứng được yêu cầu của xã hội về nhân lực công nghệ cao, Chính phủ nên có cơ chế, chính sách cho mối liên kết này bằng cách cho phép trường đại học đào tạo cơ bản (còn gọi là đào tạo phần cứng) và các doanh nghiệp gửi nhu cu đến các trường (đào tạo phần mềm). Trong "đào tạo phn cứng", các trường có thể cập nhật những thông tin mới của ngành công nghệ cao vào chương trình giảng dạy, cải cách, đổi mới một số chương trình trong khả năng và trang bị thêm thiết bị mới; trong khi "đào tạo phn mềm" thì có thể bổ sung các môn học tự chọn cho sinh viên và cách tốt nhất là theo đơn đặt hàng từ các doanh nghiệp.

Song song với đó, hàng loạt các cơ chế, chính sách h tr giữ người tài cũng cần được b sung, như: chính sách tuyển dụng đội ngũ cán bộ nghiên cứu sinh, thực tập sinh, chuyên gia khoa học công nghệ học tập và làm việc ở trong và ngoài nước, nhất là các chuyên gia giỏi, chuyên gia đu đàn trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học - công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm cht của cán bộ quản lý khoa học công nghệ ở các ngành, các cấp. Đổi mới công tác tuyển dụng, b trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ khoa học - công nghệ dựa trên những giá trị đóng góp nổi bật trong nghiên cứu khoa học cải tiến k thuật. Ban hành chính sách đãi ngộ gắn với chăm lo, bồi dưỡng và sử dụng hiệu quả đội ngũ trí thức. Không nên quan niệm đãi ngộ giới trí thức giống như các cơ chế, chính sách với người có công hay đối tượng chính sách.

    Nguồn:Báo cáo viên số 10 năm 2022

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image




Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
Đăng nhập