Nghị quyết số 42-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, trên cơ sở đánh
giá tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI một số vấn đề về
chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
thống nhất ban hành Nghị quyết mới với tên gọi Tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023).
Cổng Thông tin điện tử Đảng bộ Khối các Cơ quan và
Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết số
42-NQ/TW, ngày 24/11/2023:
I- TÌNH HÌNH
1. Trong hơn 10 năm qua, việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện ngày càng rõ tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; kinh tế, xã hội phát triển toàn diện và hài
hoà hơn, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được cải thiện
và nâng cao, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Nhận
thức của hệ thống chính trị và Nhân dân về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
của chính sách xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Các chính sách xã hội không ngừng được
hoàn thiện theo hướng tiến bộ và công bằng. Chính sách ưu đãi, tôn vinh đối với
người có công với cách mạng được chú trọng, thực hiện tốt; chính sách giảm
nghèo bền vững đạt nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và
đánh giá cao; việc làm cho người lao động cơ bản được bảo đảm, tỉ lệ thất
nghiệp khu vực thành thị thấp; chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ngày
càng khẳng định vai trò trụ cột trong bảo đảm an sinh xã hội. Hệ thống cơ sở y
tế, giáo dục, trợ giúp xã hội tiếp tục được đầu tư, mở rộng, nâng cao chất
lượng góp phần bảo đảm giáo dục, y tế, nhà ở tối thiểu, nước sạch, thông tin cơ
bản cho Nhân dân; người có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ kịp thời.
2. Tuy nhiên, chính sách xã hội và quản lý phát triển
xã hội vẫn còn một số hạn chế, yếu kém, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Kết
quả giảm nghèo có nơi, có lúc chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao, phân
hoá giàu - nghèo có xu hướng gia tăng; đời sống một bộ phận người dân còn khó
khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường
xuyên bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn
lớn; các dịch vụ xã hội cơ bản chưa đáp ứng được nhu cầu của Nhân dân. Thị
trường lao động phát triển chưa đồng bộ, lao động khu vực phi chính thức còn
lớn, đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chuyển biến
chưa rõ nét; giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học có
mặt còn hạn chế. Phạm vi bao phủ và khả năng giải quyết rủi ro của các chính
sách an sinh xã hội còn thấp. Việc bảo đảm y tế cơ bản; năng lực, chất lượng y
tế cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là trong ứng phó với dịch bệnh; tỉ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao.
Việc thực hiện chính sách nhà ở cho người thu nhập thấp còn nhiều khó khăn; tỉ
lệ người dân ở nông thôn được sử dụng nước sạch còn thấp.
3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ
yếu là do nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng
viên về vị trí, vai trò của chính sách xã hội chưa đầy đủ, toàn diện; chưa quan
tâm đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện. Hệ thống chính
sách, pháp luật về chính sách xã hội chưa hoàn thiện, đồng bộ; công tác quản lý
nhà nước còn bất cập; phương thức quản lý chậm đổi mới; chưa đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền cho địa phương, nhất là trong quản lý, tổ chức triển khai các chương
trình mục tiêu quốc gia. Nguồn lực đầu tư của Nhà nước và xã hội còn hạn chế;
việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực có nơi, có lĩnh vực hiệu quả chưa
cao.
II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
1. Quan điểm
- Chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con
người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động
lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước; là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội; thể hiện đặc
trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế gắn
với bảo đảm chính sách xã hội; tạo điều kiện để Nhân dân được thụ hưởng thành
quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống,
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo
hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; xây dựng và thực hiện chính sách
xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết
hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân hoá xã hội, bảo đảm an sinh cho Nhân
dân trong quá trình phát triển.
- Đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát
triển. Chú trọng huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực đúng mục tiêu, phù hợp
với khả năng của nền kinh tế, thu nhập của Nhân dân, trong đó nguồn lực nhà
nước đóng vai trò chủ đạo, nguồn lực của xã hội là quan trọng; kết hợp nguồn
lực trong nước và ngoài nước. Đổi mới công tác quản lý nhà nước; tăng cường
phân cấp, phân quyền; phát huy vai trò chủ thể của Nhân dân, nâng cao hiệu quả
hợp tác giữa Nhà nước, tư nhân, tổ chức xã hội, cộng đồng và Nhân dân trong
quản lý phát triển xã hội bền vững.
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước,
giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính
trị - xã hội và Nhân dân; động viên sự tham gia tích cực của Nhân dân, doanh
nghiệp; khơi dậy khát vọng phát triển, ý chí tự lực, tự cường; phát huy truyền
thống tương thân tương ái, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu tổng quát đến năm 2030
Xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền
vững, tiến bộ và công bằng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của Nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện
chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền
vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó
khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin.
Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế gắn với
việc làm bền vững; nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội gắn với bảo
đảm quyền con người, quyền công dân.
2.2. Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2030
- Bảo đảm 100% người có công và gia đình người có công
với cách mạng được chăm lo toàn diện cả vật chất và tinh thần, có mức sống từ
trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Tỉ lệ
thất nghiệp chung dưới 3%, tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%; tỉ lệ
lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%; 60% lực lượng lao
động trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội và 45% lực lượng lao động
trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; 60% số người sau độ tuổi
nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã
hội; 100% hộ gia đình chăm sóc trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai, người
cao tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định; bảo
đảm mức sống tối thiểu cho người có hoàn cảnh khó khăn; trợ cấp xã hội cho hộ
nghèo không có khả năng thoát nghèo.
- Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo
từ 3 đến 5 tuổi, tỉ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học đạt 99,5%, cấp trung
học cơ sở tối thiểu đạt 95%, cấp trung học phổ thông và tương đương tối thiểu
đạt 75%; tối thiểu 90% tỉnh, thành phố đạt chuẩn xoá mù chữ mức độ 2. Bảo đảm
vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia; tuổi thọ trung bình của người dân
khoảng 75 tuổi, số năm sống khoẻ đạt tối thiểu 68 năm; chỉ số phát triển con
người (HDI) thuộc nhóm cao trong khu vực; 35 giường bệnh viện, 19 bác sĩ, 4
dược sĩ, 33 điều dưỡng viên trên 10.000 dân; trên 95% dân số tham gia bảo hiểm
y tế; trên 95% người dân sử dụng dịch vụ chăm sóc ban đầu tại y tế cơ sở được
bảo hiểm y tế chi trả; trên 95% dân số được quản lý sức khoẻ; tỉ lệ tiêm chủng
mở rộng đạt 95%; tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi dưới
15%; cơ bản chấm dứt các dịch bệnh AIDS, lao và loại trừ sốt rét.
- Xây dựng được ít nhất một triệu căn hộ nhà ở xã hội
cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp; xoá bỏ hoàn toàn tình trạng
nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân bị ảnh hưởng bởi
thiên tai, biến đổi khí hậu; diện tích nhà ở bình quân đầu người toàn quốc đạt
khoảng 30 m2 sàn/người. 100% hộ gia đình ở thành thị và 80% hộ gia đình ở nông
thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; 100% hộ gia đình, trường học, trạm
y tế có công trình phụ hợp vệ sinh bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; 25% điểm dân
cư nông thôn tập trung có hệ thống thu gom nước thải sinh hoạt, 15% nước thải
sinh hoạt được xử lý.
- Có ít nhất 75% người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, 80% các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được hưởng
thụ và tham gia các hoạt động văn hoá, nghe, xem các kênh phát thanh, truyền
hình của quốc gia và địa phương.
2.3. Tầm nhìn đến năm 2045
Hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền
vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho Nhân dân,
góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước và xây dựng con người Việt Nam
toàn diện. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người
(HDI) cao trên thế giới./.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII về tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của chính
sách xã hội
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
về vai trò đặc biệt quan trọng, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của
chính sách xã hội trong giai đoạn mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo,
quản lý và Nhân dân, nhất là người đứng đầu. Khẳng định quyết tâm xây dựng và
thực hiện chính sách xã hội theo hướng bền vững; dựa trên quyền con người, vì
con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể; phát huy những giá trị văn
hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, tạo
động lực góp phần phát triển đất nước.
Đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, vận động
với hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, bảo đảm thiết
thực, hiệu quả; kịp thời khen thưởng, tôn vinh các tổ chức, cá nhân thực hiện
tốt chính sách xã hội, tuyên truyền, phổ biến, nhân rộng các mô hình tốt, cách
làm hay, điển hình tiên tiến.
2. Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về
chính sách xã hội
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách
xã hội bảo đảm thống nhất, đồng bộ, khả thi, phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước, tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế và tổ chức thực hiện có
hiệu quả. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh phân cấp, phân
quyền, cá thể hoá trách nhiệm trong tổ chức thực hiện; đẩy mạnh cải cách hành
chính theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch, nêu cao trách nhiệm giải trình,
tạo điều kiện thuận lợi cho Nhân dân trong tiếp cận chính sách xã hội. Kiện
toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chính sách xã hội từ Trung
ương đến cơ sở; tăng cường vai trò giám sát của Nhân dân; kịp thời phát hiện,
ngăn chặn, xử lý nghiêm hành vi trục lợi chính sách, vi phạm pháp luật.
Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của
Nhân dân làm tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức,
cán bộ, công chức, viên chức liên quan đến thực hiện chính sách xã hội.
Hiện đại hoá công tác quản lý nhà nước; đẩy mạnh
chuyển đổi số, số hoá quy trình quản lý và tổ chức thực hiện chính sách. Từng
bước áp dụng mã số an sinh xã hội cho người dân, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ
liệu quốc gia và chuyên ngành liên quan đến chính sách xã hội, bảo đảm liên
thông, an toàn, bảo mật thông tin chung và dữ liệu cá nhân. Đẩy mạnh công tác
quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ xã hội thông qua cơ chế quản lý, cập nhật,
chia sẻ dữ liệu và thông tin trên nền tảng số.
Đổi mới cơ chế huy động nguồn lực thực hiện chính sách
xã hội theo hướng linh hoạt, hiệu quả; nguồn lực nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
đồng thời huy động hợp lý nguồn lực xã hội và hợp tác quốc tế; tăng cường xã
hội hoá, hợp tác công - tư trong thực hiện chính sách xã hội.
3. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng
Chú trọng thực hiện chính sách ưu đãi người có công
với cách mạng; quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần người có công,
nhất là người ở vùng sâu, vùng xa, người gặp khó khăn trong cuộc sống. Tiếp tục
nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi theo hướng phải là mức cao nhất trong
các chính sách xã hội; có chính sách ưu tiên trong chăm sóc sức khoẻ, nhà ở,
giáo dục - đào tạo, việc làm, sản xuất và tạo thuận lợi cho người có công và
thân nhân tiếp cận các dịch vụ xã hội. Bảo đảm người có công và gia đình người
có công phải có mức sống từ trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng
đồng dân cư nơi cư trú.
Cơ bản hoàn thành việc giải quyết tồn đọng trong chính
sách người có công, nhất là tìm kiếm, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ; xây
dựng, tu bổ, tôn tạo mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, các công trình ghi công
liệt sĩ. Phát huy truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", khuyến
khích tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tích cực tham gia các phong trào
"Đền ơn đáp nghĩa".
4. Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động
Đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và phát triển
theo hướng có quy mô, cơ cấu, phân bố hợp lý, cân bằng tỉ số giới tính khi sinh
ở mức tự nhiên và duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước, nhất là đối
với một số địa bàn và nhóm dân cư. Nâng cao chất lượng dân số, tận dụng hiệu
quả thời kỳ dân số vàng; sớm hoàn thiện khung chính sách quốc gia thích ứng với
quá trình già hoá dân số; đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tạo bước đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, trọng tâm là hiện đại hoá, đa dạng hoá phương thức giáo dục,
đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục; đổi mới giáo dục
đại học, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, hiện đại,
hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường lao động và tạo cơ hội
học tập suốt đời. Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại ngành nghề phù hợp cho lực
lượng lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao năng suất lao
động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng cường định hướng nghề nghiệp
cho thanh niên ngay từ bậc học phổ thông; đẩy mạnh phân luồng, tăng số học sinh
sau trung học cơ sở, trung học phổ thông vào giáo dục nghề nghiệp; thực hiện
đào tạo nghề, dạy văn hoá, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học tại
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Đẩy nhanh xã hội hoá giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp; đa dạng hoá chủ thể tham gia đào tạo, quy định trách nhiệm và
khuyến khích doanh nghiệp đào tạo nghề cho người lao động; thường xuyên kiểm
định chất lượng giáo dục nghề nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ
chuyên gia, nhà khoa học, đặc biệt là nhân lực công nghệ cao, công nghệ mới,
công nghiệp phụ trợ chủ lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền
vững, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; chú trọng đội ngũ nhân lực
kỹ thuật, quản trị công nghệ, quản trị doanh nghiệp. Đổi mới chính sách tuyển
dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài phục vụ cho đổi mới sáng tạo, phát triển
khoa học - công nghệ.
Phát triển thị trường lao động theo hướng linh hoạt,
hội nhập, hiệu quả, đồng bộ với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; hoàn thiện chính sách, pháp luật về tiêu chuẩn lao động, quan hệ lao
động. Vận hành sàn giao dịch việc làm công khai, minh bạch, bảo đảm lợi ích hợp
pháp của người lao động; phòng, chống hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật trong
thực hiện các dịch vụ liên quan đến thị trường lao động như tư vấn, giới thiệu
việc làm, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cho thuê lại lao động…
Xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ; tăng cường đối thoại,
thương lượng, ký kết lao động tập thể trong doanh nghiệp, giải quyết tranh chấp
lao động đúng pháp luật. Thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật về an toàn vệ
sinh lao động, đặc biệt trong các lĩnh vực có nguy cơ cao, trong các nghề, công
việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp
áp dụng cho các ngành nghề trong xã hội. Hiện đại hoá, chuyển đổi số trong
thông tin dự báo thị trường, kết nối cung - cầu, quản lý nguồn nhân lực và xây
dựng cơ sở dữ liệu lao động, việc làm.
Tạo việc làm cho người lao động phải gắn với mục tiêu
phát triển bền vững nhằm giải phóng sức sản xuất, nâng cao tay nghề, thu nhập
và bảo đảm an toàn tại nơi làm việc cho người lao động. Thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, từng bước thu hẹp số lao động trong
khu vực phi chính thức; tăng cơ hội việc làm bền vững cho người trong và sau độ
tuổi lao động để thích ứng với tốc độ già hoá dân số. Mở rộng tín dụng chính
sách xã hội nhằm hỗ trợ vốn vay tạo việc làm, sinh kế cho người dân, nhất là
người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. Thúc đẩy thực hiện chính sách việc
làm công, nhất là trong điều kiện nền kinh tế gặp khó khăn, người lao động mất
việc làm, thiếu việc làm.
5. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa, không để ai bị bỏ lại phía sau
Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, có tính
chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội, người dân và giữa các nhóm dân cư, bảo đảm bền
vững và công bằng xã hội. Chú trọng phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh
hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, bao phủ được toàn bộ lực
lượng lao động; tiếp tục cải cách, mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội, tạo cơ hội
tham gia và bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Thực hiện bảo hiểm
xã hội bắt buộc đối với người lao động và thành viên của các tổ chức kinh tế
tập thể làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của
pháp luật. Đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, có chính sách hỗ trợ
từ ngân sách nhà nước cho nông dân, người nghèo, người thu nhập thấp, lao động
khu vực phi chính thức tham gia. Tiếp tục mở rộng, nâng cao chất lượng bảo hiểm
y tế toàn dân; đa dạng các gói dịch vụ bảo hiểm y tế nhằm góp phần chăm sóc sức
khoẻ nhân dân, giảm chi phí người dân chi trả trực tiếp cho dịch vụ y tế.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế; ban hành chỉ số đánh giá mức
độ hài lòng của người tham gia; quản lý an toàn, hiệu quả Quỹ bảo hiểm xã hội,
Quỹ bảo hiểm y tế. Sửa đổi chính sách bảo hiểm xã hội một lần phù hợp với thực
tiễn, gắn với an sinh xã hội. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp phải hỗ trợ cho
doanh nghiệp trong nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động để duy trì
việc làm bền vững; chủ động phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp; nâng cao hiệu
quả tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo để chuyển đổi nghề nghiệp cho người
lao động thất nghiệp.
Hoàn thiện hệ thống trợ giúp xã hội theo hướng quan
tâm cả đời sống vật chất và tinh thần, giúp người dân kịp thời khắc phục khó
khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế, xã hội, thiên tai, dịch bệnh và các
rủi ro khác. Tiếp tục nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội theo hướng bảo đảm mức
sống tối thiểu, sàn an sinh xã hội quốc gia; Nhà nước ưu tiên hỗ trợ cho người
không có khả năng lao động, người khuyết tật, người cao tuổi, người di cư và
gia đình có trẻ em, người thu nhập thấp. Phát triển mạng lưới dịch vụ trợ giúp
xã hội đối với trẻ em, người khuyết tật và người cao tuổi có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn; xây dựng đội ngũ làm công tác xã hội chuyên nghiệp; đẩy mạnh công tác
phòng ngừa, phát hiện, can thiệp sớm, hỗ trợ kịp thời người gặp khó khăn trong
cuộc sống, góp phần xây dựng cộng đồng phát triển bền vững. Đổi mới việc huy
động nguồn lực xã hội, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trợ
giúp xã hội, cứu trợ khẩn cấp; quản lý, sử dụng quỹ cứu trợ xã hội từ thiện,
nhân đạo công khai, minh bạch, hiệu quả, đúng pháp luật.
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo
bền vững theo hướng đa chiều, bao trùm, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch
vụ xã hội cơ bản; hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế, từng bước nâng
cao thu nhập, ổn định cuộc sống lâu dài cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nghiên cứu,
triển khai cơ chế thí điểm phân cấp thực hiện trọn gói các chương trình mục
tiêu quốc gia cho cấp huyện.
6. Nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi
người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng
Về giáo dục: Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân
theo hướng mở, công bằng, bình đẳng, thúc đẩy xã hội học tập và tạo cơ hội học
tập suốt đời. Nâng cao chất lượng giáo dục, đa dạng hoá mô hình, chương trình
đào tạo, phương thức học tập phù hợp với người học. Củng cố kết quả phổ cập
giáo dục, xoá mù chữ, từng bước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3
đến 5 tuổi. Chú trọng phát triển mạng lưới trường lớp, nhất là ở vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu đông dân cư. Tăng cường giáo dục hoà nhập cộng đồng cho người khuyết tật,
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi
số, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả hệ thống quản lý giáo dục và hoạt động của
giáo viên. Thúc đẩy chủ trương xã hội hoá góp phần hỗ trợ khu vực công thực
hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo.
Về y tế: Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng,
hội nhập, bảo đảm điều kiện tiếp cận và chăm sóc sức khoẻ cho mọi người dân
hướng tới bảo hiểm y tế toàn dân. Chú trọng phát triển mạng lưới y tế cơ sở, y
tế dự phòng, chăm sóc sức khoẻ tâm thần, chăm sóc sức khoẻ phụ nữ mang thai, bà
mẹ và trẻ em; khám sức khoẻ định kỳ cho Nhân dân; quản lý các bệnh mạn tính đối
với người cao tuổi. Thực hiện có hiệu quả chính sách dinh dưỡng, giải quyết
tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi; nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam; bảo đảm
vệ sinh, an toàn thực phẩm. Nâng cao chất lượng dự báo, giám sát, phát hiện,
phòng ngừa có hiệu quả dịch bệnh, bảo đảm an ninh y tế; phát triển y tế học
đường, y học gia đình. Tăng cường chuyển đổi số trong công tác quản lý, trong
quản lý hồ sơ sức khoẻ điện tử, bảo hiểm y tế.
Về phát triển văn hoá: Xây dựng môi trường văn hoá
lành mạnh, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, di sản văn hoá dân tộc, văn
hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số. Không ngừng nâng cao
đời sống tinh thần của Nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách về
hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt là nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nơi tập
trung đông người lao động... Nghiên cứu, xây dựng chương trình mục tiêu quốc
gia về văn hoá đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bảo đảm phát triển kinh tế
- xã hội đi đôi với phát triển văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh, nâng cao
đời sống văn hoá, tinh thần của Nhân dân.
Về thông tin: Thực hiện chính sách, pháp luật về quyền
tiếp cận thông tin của công dân theo hướng bình đẳng, tạo điều kiện thuận lợi
trong tiếp cận và bảo vệ người dân, đặc biệt là trẻ em, nhóm yếu thế được an
toàn trên môi trường mạng. Tăng cường phổ cập dịch vụ viễn thông, hỗ trợ người
dân tiếp cận thông tin, công nghệ số. Thiết lập các cụm thông tin điện tử, dịch
vụ thông tin công cộng phục vụ thông tin, tuyên truyền tại các cửa khẩu, vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.
Về nhà ở: Nêu cao trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền,
hệ thống chính trị, nhất là chính quyền địa phương trong thực hiện chủ trương
của Đảng và Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm
nhìn 2045, bảo đảm cho người dân có chỗ ở thích hợp, chất lượng và an toàn, có
sự chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước, xã hội và người dân phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội và thu nhập. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về nhà ở xã hội;
phát triển đa dạng các loại hình nhà ở và cơ chế, chính sách mua, thuê, thuê
mua nhà ở xã hội, nhà lưu trú, ký túc xá cho công nhân, người lao động, học
sinh, sinh viên. Nhà nước có chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội cho một số đối
tượng khó khăn; chính sách về đất đai, vốn, tín dụng hỗ trợ cho hộ nghèo khu
vực nông thôn cải thiện nhà ở và nâng cao điều kiện an toàn về chỗ ở cho người
dân sinh sống tại khu vực thường xuyên bị thiên tai, ảnh hưởng bởi biến đổi khí
hậu. Huy động xã hội, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nhà ở
xã hội.
Về nước sạch, vệ sinh môi trường: Bảo đảm nhu cầu
thiết yếu về nước sạch sinh hoạt theo quy chuẩn cho người dân, nhất là người
dân nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi,
bãi ngang, ven biển, hải đảo, vùng thường xuyên bị thiên tai, hạn hán, xâm nhập
mặn, ô nhiễm nguồn nước. Nhà nước có chính sách cung cấp nước sạch cho các cơ
sở giáo dục, y tế và các cơ sở thiết yếu khác. Hoàn thiện chính sách về nước
sạch đồng bộ, thống nhất, liên ngành, liên vùng và bảo đảm an ninh nguồn nước.
Thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, ưu tiên xử lý ô
nhiễm môi trường, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái, bảo vệ môi
trường khu dân cư nhằm cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của
Nhân dân. Lồng ghép, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong
phát triển kinh tế - xã hội; có giải pháp đủ mạnh để giải quyết triệt để ô
nhiễm do nước thải, rác thải, khí thải; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ suy thoái, ô
nhiễm môi trường, nhất là vấn đề rác thải, khí thải, nước thải tại các đô thị
lớn, khu vực nông thôn, miền núi.
7. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp
dịch vụ xã hội
Phát triển hệ thống dịch vụ xã hội đa dạng, liên
thông, liên tục, chuyên nghiệp, đáp ứng cơ bản nhu cầu và tăng khả năng tiếp
cận cho các nhóm đối tượng, nhất là công nhân, người có hoàn cảnh khó khăn,
người di cư, đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng đội ngũ nhân viên làm công tác
xã hội hiểu biết pháp luật, có phẩm chất đạo đức, tận tâm, hoạt động chuyên
nghiệp. Nâng cao chất lượng các dịch vụ việc làm, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo
dục, trợ giúp xã hội và hệ thống cơ sở dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng người có
công với cách mạng, trẻ em mồ côi, người cao tuổi, người khuyết tật không nơi
nương tựa. Phát triển mạng lưới dịch vụ chăm sóc xã hội tại cộng đồng, mô hình
chăm sóc và trợ giúp xã hội ngoài công lập; phát huy vai trò của gia đình trong
chăm sóc, bảo vệ người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em. Hoàn thiện cơ chế,
chính sách hợp tác công - tư, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, hiện đại
hoá, phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ xã hội; đẩy mạnh việc chi trả không
dùng tiền mặt cho các đối tượng chính sách trên cơ sở kết nối, khai thác hiệu
quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
8. Đẩy mạnh hợp tác và tranh thủ nguồn lực, kinh
nghiệm quốc tế trong thực hiện chính sách xã hội
Tiếp tục nội luật hoá các cam kết về tiêu chuẩn lao
động, quan hệ lao động, việc làm và an sinh xã hội phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội của đất nước. Khai thác có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do
(FTA) và các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên cho thực hiện
chính sách xã hội. Phấn đấu thực hiện mục tiêu là quốc gia tiên phong trong
chương trình thúc đẩy toàn cầu về việc làm và an sinh xã hội hướng tới chuyển
đổi công bằng theo sáng kiến của Liên hợp quốc và Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO). Tích cực tham gia, đóng góp xây dựng các định hướng hợp tác quốc tế lớn
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các cơ chế hợp tác đa phương mới liên
quan đến việc làm, an sinh xã hội và các chính sách xã hội khác, nhất là trong
khuôn khổ Liên hợp quốc và ASEAN, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tranh thủ
nguồn lực quốc tế góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Tăng cường hợp tác song phương, đa phương; huy động và
sử dụng hiệu quả nguồn vốn, nguồn viện trợ, tài trợ, hỗ trợ kỹ thuật của các
nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế cho chính sách xã hội. Đẩy
mạnh chuyển giao khoa học - công nghệ hướng tới việc làm bền vững, nâng cao
năng suất lao động, bảo đảm an sinh xã hội, trợ giúp xã hội. Chú trọng phát
triển nguồn nhân lực có sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và tổ chức thực
hiện nghiêm các quy định về tiêu chuẩn lao động, quan hệ lao động, tiêu chuẩn
nghề nghiệp tương thích và cạnh tranh quốc tế. Khuyến khích nguồn lực quốc tế
hỗ trợ, đầu tư phát triển các dịch vụ xã hội, ứng phó với thiên tai, biến đổi
khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường
xuyên biên giới.
9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò
của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội, hội quần chúng trong thực hiện chính sách xã hội
Tăng cường nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức
đảng, chính quyền, hệ thống chính trị các cấp, nhất là người đứng đầu trong
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thực hiện chính sách xã hội.
Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp tăng cường giám
sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về chính sách xã hội, trên cơ sở đó
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội và các tổ chức hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ thường xuyên
lắng nghe, phản ánh, phối hợp giải quyết tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính
đáng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; nâng cao chất lượng hoạt động giám
sát và phản biện xã hội; tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận của hội
viên, đoàn viên và Nhân dân trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; phối hợp vận động nguồn lực, khuyến khích
tổ chức, cá nhân phát triển các loại hình cung cấp dịch vụ xã hội và tích cực
tham gia thực hiện chính sách xã hội.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Chính trị ban hành kế hoạch thực hiện Nghị
quyết; lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, kịp thời, tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ trong nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị về chính sách xã hội.
2. Các tỉnh uỷ, thành uỷ; các ban đảng, ban cán
sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương nghiên cứu, quán triệt và xây
dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ được giao; tình hình thực tiễn của ngành, địa phương, cơ quan,
đơn vị; định kỳ kiểm tra, đánh giá việc thực hiện.
3. Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ
lãnh đạo, chỉ đạo thể chế hoá, hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã
hội; xây dựng và tổ chức triển khai chương trình, kế hoạch, đề án thực hiện
Nghị quyết, sớm đưa nội dung Nghị quyết vào cuộc sống; ưu tiên bố trí nguồn
lực; tăng cường kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Nghị quyết.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết;
tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia và giám sát thực
hiện Nghị quyết.
5. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban
Kinh tế Trung ương tổ chức hướng dẫn việc nghiên cứu, học tập và quán triệt
tuyên truyền sâu rộng về Nghị quyết.
6. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với
các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc
triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính
trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.