Nâng cao năng lực dự báo để phục vụ hiệu quả công tác điều hành kinh tế vĩ mô

Dự báo kinh tế - xã hội (sau đây gọi là dự báo) là một trong những công cụ thiết yếu trong điều hành kinh tế vĩ mô để nền kinh tế và các hoạt động xã hội phát triển theo hướng bền vững, tránh những xáo động lớn có thể ảnh hưởng tới mục tiêu ban đầu. Dự báo kịp thời và chính xác sẽ giúp nền kinh tế tận dụng được tối đa cơ hội phát triển và giảm thiểu rủi ro, đồng thời giúp các cơ quan quản lý chủ động sớm đưa ra quyết sách, giải pháp phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng trong duy trì tăng trưởng kinh tế và giữ ổn định vĩ mô.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử của Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam tại Khu công nghiệp Yên Phong, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh _Ảnh: TTXVN

Khái quát về công tác dự báo phục vụ điều hành kinh tế vĩ mô

Dự báo nhằm nhận định về tương lai nền kinh tế trên cơ sở khoa học và kinh nghiệm được đưa ra dựa trên cơ sở các thống kê dữ liệu, các sự kiện và phản ứng của nền kinh tế trong quá khứ kết hợp với các phân tích, giả định có thể xảy ra trong tương lai. Các kết quả dự báo được đưa ra từ việc phân tích dữ liệu trên cơ sở lý thuyết kinh tế kết hợp giữa kinh nghiệm chuyên gia và những phương pháp dự báo với hệ thống mô hình kinh tế được kiểm định chặt chẽ. Dự báo mang tính xác suất. Mỗi đối tượng dự báo đều vận động theo quy luật hay quỹ đạo nhất định nào đó, đồng thời trong quá trình phát triển, luôn chịu sự tác động của môi trường hay yếu tố bên ngoài. Bản thân môi trường hay các yếu tố tác động không phải đứng im mà luôn trong trạng thái vận động, phát triển không ngừng. Mục đích cuối cùng của dự báo nhằm đưa ra các kịch bản phát triển và cân nhắc các diễn biến có thể xảy ra trong tương lai của nền kinh tế, là một khâu quan trọng trong quá trình xây dựng và hoạch định các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành hoặc lĩnh vực, của một vùng lãnh thổ hoặc phạm vi quốc gia, phục vụ quá trình ra quyết định trong chỉ đạo, điều hành vĩ mô.

Trong lĩnh vực điều hành kinh tế - xã hội, công tác dự báo tại Việt Nam được triển khai từ cuối thập niên 60 đã có những đóng góp nhất định trong hạch toán quá trình sản xuất và kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân; hiện nay đang đóng góp ngày càng quan trọng vào tiến trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với nền kinh tế thế giới cũng như vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể chia công tác dự báo phục vụ điều hành vĩ mô ở Việt Nam thành hai giai đoạn với đặc thù sau:

Trước năm 1986, Việt Nam theo mô hình kế hoạch hóa tập trung và sử dụng kế hoạch là công cụ chính để điều hành nền kinh tế. Công tác dự báo kinh tế tại Việt Nam khi đó giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác, được triển khai chủ yếu phục vụ công tác kế hoạch hóa. Trong giai đoạn này, Việt Nam cũng sử dụng một số mô hình dự báo xây dựng trên cơ sở thông tin của hệ thống sản xuất vật chất với cấu trúc mô hình chỉ chứa duy nhất một khối sản xuất được xây dựng trên cơ sở thông tin của Bảng cân đối sản phẩm vật chất (Material Product Balance System - MPS) mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng trước đây. Mô hình này không có nhiều ý nghĩa vì tách biệt với phần còn lại của thế giới và chủ yếu phụ thuộc vào sự điều tiết theo kế hoạch của Nhà nước.

Từ năm 1986 đến nay, công tác dự báo có bước chuyển biến mới. Điều này liên quan trực tiếp đến chuyển đổi mô hình phát triển của Việt Nam từ kế hoạch hóa sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là các chính sách mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts - SNA) được quyết định sử dụng thay cho Bảng cân đối sản phẩm vật chất (MPS) theo Quyết định số 183/TTg, ngày 25-12-1992, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia”. Đây là bước đi quan trọng trong thực hiện công tác dự báo ở Việt Nam, do hệ thống tài khoản quốc gia được thống nhất sử dụng cho hầu hết quốc gia trên thế giới, vì vậy có thể vận dụng các mô hình và lý thuyết kinh tế trong phân tích tác động chính sách nhằm đưa ra các dự báo phục vụ công tác điều hành vĩ mô và so sánh hiện trạng nền kinh tế với phần còn lại của thế giới.

Trong nền kinh tế thị trường, công tác dự báo kinh tế được đánh giá là có vai trò quan trọng đối với điều hành vĩ mô. Dự báo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết, có cơ sở khoa học, nhằm bố trí, sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả. Ở cấp độ vĩ mô, dự báo cho phép các nhà hoạch định chính sách của quốc gia, vùng, địa phương lập chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, giải pháp phân bổ nguồn lực hợp lý và hiệu quả nhất. Ở cấp độ vi mô, thông tin dự báo giúp doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân có các đối sách điều chỉnh sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm phù hợp. Dự báo không chỉ tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phát triển, quy hoạch tổng thể, kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của quốc gia hay doanh nghiệp, mà còn cho phép đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch.

Hiện tại, dự báo ở các mức độ khác nhau đã tham gia vào hầu hết lĩnh vực quan trọng nhằm đưa ra các quyết định trong điều hành vĩ mô tại Việt Nam. Từ những dự báo định kỳ nhằm phục vụ quá trình xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, đến những dự báo đột xuất nhằm đánh giá tác động và phản ứng của nền kinh tế khi xảy ra các biến động trong nước và ngoài nước. Phần lớn các phương pháp và công cụ dự báo kinh tế - xã hội tiên tiến đã được nghiên cứu, ứng dụng tại Việt Nam, đóng góp vào quá trình ra quyết định của các cơ quan quản lý nhà nước. Những mô hình dự báo định lượng được xây dựng ở nước ta, như mô hình kinh tế lượng vĩ mô, mô hình cân bằng tổng quát, mô hình tăng trưởng kinh tế trọng cung, mô hình đầu vào - đầu ra được xây dựng cho nền kinh tế Việt Nam cũng như nhiều khối mô hình Việt Nam cũng được xây dựng và cập nhật trong các mô hình phân tích dự báo toàn cầu, như mô hình dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP), mô hình dự báo kinh tế vĩ mô (NiGEM),...

Để phục vụ điều hành vĩ mô của Chính phủ, công tác dự báo được thực hiện chủ yếu tại bốn cơ quan đầu mối, bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hoạt động theo Quyết định số 1317/QĐ-TTg, ngày 6-8-2013, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt Đề án cải cách cơ chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô”, (gọi tắt là Tổ 1317). Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư với vai trò là cơ quan tham mưu, tổng hợp cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, là cơ quan thực hiện công tác dự báo chung, nhằm tham mưu về xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế -  xã hội chung của cả nước, các vùng, đưa ra các tư vấn trong điều hành vĩ mô; Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện dự báo, nhằm tham mưu trên các mặt điều hành giá cả, chính sách thuế, tài chính, tiền tệ và các lĩnh vực chuyên môn khác. Các đơn vị, bộ, ngành, các viện nghiên cứu, các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu khác cũng đưa ra những dự báo trong các lĩnh vực chuyên môn, cũng như các dự báo phục vụ điều hành vĩ mô dựa trên cơ sở phân tích và đánh giá độc lập, nhằm góp phần tư vấn chính sách, nâng cao chất lượng dự báo phục vụ điều hành vĩ mô. 

Ngoài các đơn vị trong nước, các tổ chức nghiên cứu kinh tế quốc tế, như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và nhiều tổ chức khác cũng tiến hành các dự báo định kỳ về triển vọng kinh tế các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đây là kênh tham khảo giúp Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm, tham khảo chính sách, cũng như biết được vị trí của mình trong tương quan so sánh với các nước khác trong khu vực và trên thế giới dưới cái nhìn khách quan.

Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái tham quan triển lãm tại sự kiện Chuyển đổi số ngành ngân hàng năm 2023 _Nguồn: thanhnien.vn

Thực trạng công tác dự báo phục vụ điều hành vĩ mô của Việt Nam thời gian qua

Công tác dự báo thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực phục vụ công tác điều hành vĩ mô của Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động nhanh và phức tạp tác động đan xen, nền kinh tế Việt Nam có độ mở ngày một lớn nên chịu tác động ngày một nhiều từ kinh tế thế giới, công tác chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự báo đã có nhiều đóng góp vào quá trình hoạch định và điều hành chính sách vĩ mô, góp phần xác định được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quan trọng trong chiến lược, kế hoạch 5 năm, hằng năm, cũng như đưa ra những tư vấn nhằm xác định, lựa chọn và chuyển đổi mục tiêu ưu tiên trong điều hành khi có biến động lớn về tình hình trong nước và ngoài nước.

Các công việc có đóng góp của dự báo vào điều hành vĩ mô thời gian qua có thể kể đến, như các báo cáo định kỳ đánh giá bối cảnh trong nước và ngoài nước, trong đó có dự báo các xu hướng và kịch bản phát triển kinh tế - xã hội, của các kế hoạch kinh tế - xã hội hằng năm (theo quý, 6 tháng và cả năm), 5 năm (báo cáo xây dựng, báo cáo đánh giá khả năng hoàn thành kế hoạch), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội các giai đoạn 10 năm; các báo cáo định kỳ phục vụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ (Tổ tư vấn Chính phủ, Tổ 1317,...); các báo cáo đánh giá về tác động của những thay đổi đột xuất của kinh tế thế giới, như việc thay đổi chính sách của các đối tác đầu tư thương mại lớn của Việt Nam, tác động của thay đổi giá cả nguyên liệu thiết yếu của thế giới (giá dầu, giá nguyên liệu sản xuất,...), các thay đổi địa - chính trị gây ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam (Việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (Brexit), tác động của cuộc xung đột Nga - U-crai-na,...)), tác động của việc tham gia vào các hiệp định thương mại (WTO, CPTPP và EVFTA) và tác động của các chính sách điều hành trong nước đến việc thực hiện các chỉ tiêu điều hành nền kinh tế, đặc biệt là khi nền kinh tế gặp biến động (chính sách kích cầu; chính sách lương; thay đổi giá cả các mặt hàng thiết yếu: giá điện, giá xăng; tỷ giá; lãi suất; thuế; tác động của giải ngân vốn đầu tư công trong việc hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng; tác động của các gói cứu trợ nền kinh tế do tác động của khủng hoảng tài chính châu Á (1997), khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008), đại dịch COVID-19).

Tuy nhiên, công tác dự báo phục vụ điều hành cũng còn một số hạn chế, bao gồm các nội dung sau:

Một là, công tác dự báo chưa thực sự bám sát thực tế đời sống kinh tế và chưa trở thành công cụ đáng tin cậy của điều hành vĩ mô. Công tác nắm tình hình, dự báo các kịch bản phục vụ xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách điều hành vĩ mô còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đời sống kinh tế - xã hội. Dự báo chưa trở thành một khâu bắt buộc trong quá trình xây dựng, hoạch định, điều hành và đánh giá chính sách dẫn đến việc một số chính sách điều hành chưa đúng, chưa trúng, không đánh giá được hết những phản ứng của nền kinh tế, làm giảm hiệu quả, hiệu lực và tính chủ động trong điều hành vĩ mô. Kết quả dự báo chưa đầy đủ và kịp thời trong việc điều chỉnh chính sách, quy hoạch, kế hoạch và hoạt động điều hành vĩ mô của quốc gia, làm ảnh hưởng đến việc thể chế, cụ thể hóa một số chủ trương, đường lối chỉ đạo, điều hành trong điều hành chính sách vĩ mô của Việt Nam.

Hai là, thiếu các dự báo theo ngành, lĩnh vực hoặc thị trường, trong khi có nhu cầu cao từ doanh nghiệp, hiệp hội ngành, nghề, hộ sản xuất, kinh doanh về dự báo cung, cầu sản phẩm, giá cả thị trường trong nước và ngoài nước, hoặc dự báo về xuất, nhập khẩu những ngành hàng cụ thể. Thiếu các dự báo theo vùng lãnh thổ, địa phương dẫn tới khó khăn cho việc triển khai điều hành chính sách vĩ mô theo không gian. Ngoài ra, còn thiếu liên kết trong dự báo vĩ mô với vai trò là dự báo tổng thể, cân đối và định hướng cho các dự báo lĩnh vực, khu vực doanh nghiệp và cộng đồng.

Ba là, thiếu các dự báo về các vấn đề xã hội và môi trường. Khi nền kinh tế đòi hỏi phát triển bền vững và bao trùm, phạm vi của dự báo cần mở rộng, không chỉ gói gọn trong điều hành các vấn đề kinh tế, mà còn xem xét đến biến động của các yếu tố dư luận xã hội, địa - chính trị, môi trường, an ninh, trật tự. Việc thiếu hụt các dự báo này đang là trở ngại lớn trong hoạch định  chính sách phát triển bền vững.

Nguyên nhân của hạn chế này có cả khách quan và chủ quan:

Nguyên nhân khách quan là do tình hình kinh tế quốc tế diễn biến ngày càng phức tạp và khó lường, đồng thời cấu trúc nền kinh tế thay đổi nhanh khiến công tác dự báo phải thay đổi, cập nhật liên tục, thường xuyên về phương pháp, phạm vi, lĩnh vực để phù hợp với tình hình thực tế, điều này dẫn tới nguồn số liệu không bảo đảm được tính kịp thời, nhất quán, cũng như độ dài của bộ số liệu theo chuỗi phục vụ công tác dự báo. Nguyên nhân khác là do mô hình kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thị trường đang trong quá trình hình thành và có những đặc thù chưa có tiền lệ. Điều này phần nào ảnh hưởng đến việc áp dụng các mô hình, lý thuyết kinh tế thị trường hay các lý thuyết kinh tế đương đại khác.

Ngoài nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế trong công tác dự báo phục vụ điều hành vĩ mô thời gian qua là:

Thứ nhất, tư duy của các nhà hoạch định chính sách trong sử dụng thông tin dự báo còn chưa đầy đủ, đặc biệt ở cấp ngành, vùng, địa phương. Công tác dự báo mặc dù là khâu quan trọng trong quá trình xây dựng chiến lược, kế hoạch và điều hành vĩ mô, nhưng chưa phải là một khâu độc lập được thể chế hóa bằng văn bản pháp quy, dẫn đến công tác dự báo được thực hiện thiếu đồng bộ và thống nhất. Chưa có một đơn vị đủ thẩm quyền, chuyên sâu thực hiện công tác dự báo phục vụ điều hành vĩ mô.

Thứ hai, thiếu cơ sở dữ liệu dùng chung cho công tác dự báo phục vụ cho điều hành vĩ mô. Hiện nay, công tác dự báo chưa có cơ sở dữ liệu vĩ mô dùng chung cho các đơn vị thực hiện dự báo phục vụ điều hành kinh tế vĩ mô. Số liệu thống kê, đặc biệt là số liệu cập nhật phục vụ điều hành chưa được thống nhất; còn thiếu tính tương tác và phương pháp phục vụ dự báo cũng như chia sẻ kết quả dự báo giữa các đơn vị thực hiện dự báo điều hành kinh tế xã hội; chưa có cơ chế phổ biến kết quả dự báo đến các cấp, các ngành, các địa phương để chủ động hơn trong điều hành vĩ mô, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác dự báo phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và xã hội.

Thứ ba, chưa tích hợp được các công cụ dự báo hiện đại dựa trên công nghệ thông tin. Các phương pháp dự báo hiện tại đều dựa vào phương pháp truyền thống trên hệ thống số liệu do các cơ quan thống kê cung cấp. Tuy nhiên, việc dựa vào các nguồn số liệu này có những hạn chế, trong đó hạn chế lớn nhất là chậm trễ về thời gian, phụ thuộc vào thời điểm công bố số liệu của đơn vị điều tra. Mặc dù, các phương pháp thống kê đã được cải thiện gần đây với việc áp dụng công nghệ thông tin, song nhìn chung thông tin khi đến được người sử dụng có độ trễ nhất định và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và tính cập nhật của dự báo và làm cho công tác dự báo bị tụt hậu xa so với thực tiễn phát triển.

Thứ tư, đội ngũ chuyên gia thực hiện phân tích, dự báo còn mỏng, năng lực không đồng đều, đặc biệt là trong việc xây dựng mô hình, đánh giá, diễn giải kết quả phân tích, dự báo. Công tác dự báo là một công việc phức tạp, đòi hỏi những người làm công tác này có kiến thức rộng và tổng hợp trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế học, toán học, quản trị,... để có thể vận dụng và triển khai những phương pháp luận dự báo. Vì thế, việc đào tạo đội ngũ dự báo chuyên sâu cần có thời gian và đầu tư đào tạo dài hạn, đồng thời có cơ chế để giữ chân và khuyến khích đội ngũ cán bộ dự báo chuyên tâm với nghề.

Thứ năm, đầu tư cho công tác dự báo chưa được quan tâm đúng mức tại nhiều đơn vị, dẫn đến nguồn lực bị dàn trải, không đều, hiệu quả đầu tư chưa cao. Hệ thống số liệu và phương pháp, mô hình dự báo phải được thường xuyên cập nhật, nâng cấp mới có thể đáp ứng được yêu cầu phản ứng chính sách nhanh và chuẩn xác. Phương pháp và công cụ dự báo cần được chuẩn bị sẵn sàng cho các dự báo đột xuất khi tình hình kinh tế - xã hội bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài. Các mô hình dự báo được xây dựng chủ yếu nhờ sự tài trợ về tài chính và/hoặc hỗ trợ kỹ thuật của chuyên gia nước ngoài, nếu không được cập nhật liên tục cũng như nâng cấp đội ngũ cán bộ tiếp nhận chuyển giao sẽ khó duy trì, mở rộng và khai thác về sau.

Từ thực trạng trên có thể rút ra các bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, nâng cao vai trò của công tác dự báo trong điều hành vĩ mô. Coi dự báo là một khâu không thể tách rời của quá trình xây dựng và hoạch định chính sách. Đây là một yếu tố quan trọng, quyết định sự phát triển của công tác dự báo trong điều hành, là cơ sở để công tác dự báo có thể thu hút được sự quan tâm và đầu tư đúng mức từ nhiều nguồn lực và các đối tượng khác nhau trong xã hội, qua đó có thể nâng cao chất lượng và đáp ứng được ngày một tốt hơn các nhu cầu điều hành vĩ mô.

Thứ hai, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, chính xác và được cập nhật thường xuyên. Trong đó, ngoài việc xây dựng và cập nhật thường xuyên các dự báo phục vụ báo cáo định kỳ cần chuẩn bị sẵn sàng số liệu, phương pháp, công cụ, mô hình dự báo mới có thể đáp ứng nhanh và chính xác những vấn đề đặt ra, đặc biệt là khi có các nhân tố “đột ngột” xuất hiện từ những thay đổi địa - chính trị thế giới, hay những biến động bất thường về thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng đến nền kinh tế và việc thực hiện các mục tiêu, kế hoạch. Chất lượng và khả năng đáp ứng của hệ thống số liệu là một yếu tố quan trọng đóng vai trò quyết định tới kết quả dự báo.

Thứ ba, lựa chọn phương pháp và mô hình dự báo tiên tiến, tích hợp kết quả dự báo định lượng với các phương pháp khác. Với sự phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ, dạng thức số liệu cũng như phương pháp sử dụng số liệu để điều hành vĩ mô là yếu tố quan trọng, bảo đảm yêu cầu dự báo kịp thời trước các biến động ngày một nhanh chóng và khó lường của đời sống kinh tế - xã hội. Việc kết hợp các phương pháp dự báo hiện đại và truyền thống nhằm tận dụng được thế mạnh cũng như giảm thiểu hạn chế của các phương pháp này cần tiến hành triệt để để có thể đưa ra được những kết quả dự báo tối ưu. Việc lựa chọn phương pháp và mô hình dự báo cần xem xét đến điều kiện thực tế của từng nước (điều kiện về số liệu phần mềm, nguồn nhân lực...), nhưng cần được cập nhật cách tiếp cận, cũng như phương pháp tiên tiến mới có thể đáp ứng yêu cầu điều hành vĩ mô trong thời kỳ mới.

Thứ tư, đội ngũ cán bộ làm công tác dự báo cần được bảo đảm chất lượng. Thực tế cho thấy, khả năng, năng lực dự báo của một bộ phận cán bộ các cấp vẫn còn hạn chế về trình độ, thiếu sự nhạy bén, vì thế khả năng nắm bắt được những quy luật khách quan và thích ứng với tình hình còn yếu, dẫn đến hệ quả là quyết sách trong điều hành vĩ mô có lúc chưa đánh giá hết các yếu tố khách quan, chủ quan; do vậy, trong một số trường hợp không sâu sát, thiếu tính khả thi, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phong phú, sinh động. Thêm vào đó, trước những biến động không ngừng của xã hội, đội ngũ cán bộ làm dự báo cần liên tục nâng cao trình độ, nhằm cập nhật kiến thức, phương pháp dự báo mới để có thể đưa ra được kết quả dự báo tốt nhất phục vụ công tác điều hành.

Thứ năm, minh bạch hóa thông tin trên nhiều kênh và phương tiện chuyển tải. Khi thông tin đã được phổ biến công khai một cách rộng rãi, sẽ có nhiều cơ quan, đơn vị cũng như các nhà nghiên cứu sử dụng, từ đó họ sẽ có thông tin phản hồi về số lượng, chất lượng của thông tin đó. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng thông tin, chất lượng công tác phân tích dự báo phục vụ cho quá trình hoạch định chính sách, xây dựng và điều hành kế hoạch phát triển.

Bốc xếp container hàng xuất khẩu tại cảng quốc tế Gemalink, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu _Ảnh: TTXVN

Nhiệm vụ đặt ra cho công tác dự báo trong phục vụ điều hành vĩ mô giai đoạn mới

Tình hình thế giới biến động ngày một khó lường, nhiều rủi ro kể cả truyền thống và phi truyền thống diễn ra với tần suất ngày một nhiều, quy mô ảnh hưởng ngày một rộng trên nhiều mặt kinh tế, xã hội, gây ra những tác động tích cực và tiêu cực đan xen đến nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập ngày một sâu hơn vào kinh tế thế giới. Điều này đòi hỏi những kết quả dự báo, cảnh báo nhanh, sát với tình hình thực tế để tư vấn, đưa ra những quyết sách kịp thời và chính xác, tận dụng cơ hội, đồng thời giảm thiểu rủi ro. Đổi mới công tác dự báo là một yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng hoạch định chính sách và điều hành vĩ mô của Chính phủ.

Đối với công tác dự báo phục vụ điều hành vĩ mô, giai đoạn này sẽ có nhiều cơ hội: Tiếp cận với thông tin đa dạng kể cả truyền thống và phi truyền thống, đa chiều về nguồn gốc, phong phú về lĩnh vực; cách thức thu thập, xử lý thông tin cũng trở nên thông suốt và được hỗ trợ nhiều bởi các công nghệ mới; hệ thống phương pháp và mô hình cũng được phát triển mạnh, tốc độ xử lý thông tin lưu trữ nhanh, kỹ thuật trợ giúp quá trình đưa ra các dự báo phục vụ điều hành vĩ mô ngày một tiên tiến. Đây đều là những cơ hội để có thể tiếp cận và phát triển dự báo nhằm đáp ứng yêu cầu điều hành vĩ mô nhanh và chính xác. Ngoài ra, trong quá trình phát triển, nhiều thị trường đang được hình thành và hoàn thiện (thị trường chứng khoán, thị trường lao động,...) tạo điều kiện cho việc vận dụng những mô hình dự báo để đưa ra kết quả chính xác hơn. Đồng thời, cải thiện chất lượng công tác dự báo luôn là lĩnh vực được chú ý trong công tác nâng cao hiệu quả điều hành vĩ mô của Chính phủ.

Tuy vậy, cũng còn nhiều thách thức đối với công tác dự báo. Việc thông tin đa dạng, đa chủng loại, đa tần suất cần đòi hỏi sự tỉnh táo và trình độ cao của đội ngũ cán bộ làm công tác dự báo. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, biến động kinh tế - xã hội trên thế giới diễn biến rất nhanh và chưa từng có tiền lệ, tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế - xã hội với mức độ ngày một lớn, yêu cầu đối với công tác dự báo phục vụ điều hành vĩ mô cũng sẽ nhiều và phức tạp hơn. Tình hình thế giới biến động ngày một khó lường, gây ra những tác động tích cực và tiêu cực đan xen đến nền kinh tế Việt Nam. Trước sự tác động trên nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội với phạm vi mở rộng nhiều quốc gia đòi hỏi công tác dự báo kinh tế có những bước chuyển mình mới, nhằm đưa ra những kết quả dự báo nhanh, sát với tình hình thực tế, tư vấn chính sách kịp thời và chính xác. Thêm vào đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế đặc thù riêng có của Việt Nam, điều này đòi hỏi công tác dự báo đưa ra kịch bản dự báo diễn biến của nền kinh tế.

Nhận thức rõ bối cảnh, điều kiện mới, Đảng ta xác định: “Cần chú trọng nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất lượng công tác hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại”(1). Trước biến động khó lường của tình hình và mức độ hội nhập ngày một sâu của nền kinh tế Việt Nam, nhiệm vụ dự báo phục vụ điều hành vĩ mô phải đổi mới, cập nhập các công nghệ, bảo đảm đưa ra tư vấn chính sách nhanh, chính xác và kịp thời.

Giải pháp nâng cao năng lực dự báo trong điều hành vĩ mô

Trước cơ hội và thách thức với công tác dự báo, tham khảo kinh nghiệm thành công ở các quốc gia làm tốt công tác dự báo trong phục vụ điều hành vĩ mô, thời gian tới, để nâng cao năng lực dự báo phục vụ điều hành vĩ mô, cần tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện thể chế, khuôn khổ pháp lý về công tác dự báo. Cần nâng cao nhận thức về vai trò của công tác dự báo trong điều hành vĩ mô, đưa dự báo thành một khâu bắt buộc trong quá trình xây dựng hoạch định, điều hành, đánh giá chính sách. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp trong công tác dự báo, kết nối giữa các đơn vị nghiên cứu trong thực hiện dự báo, chia sẻ thông tin đầu vào, thực hiện dự báo và phổ biến sử dụng kết quả dự báo. Giao đơn vị chuyên trách trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thực hiện các dự báo tổng hợp phục vụ điều hành vĩ mô, chủ trì tổng hợp các hoạt động dự báo phục vụ điều hành vĩ mô đối với các đơn vị thực hiện các dự báo thành phần trong các lĩnh vực chuyên ngành khác.

Thứ hai, xây dựng và phát triển các cơ sở dữ liệu và hệ thống phương pháp dự báo tiên tiến phục vụ công tác điều hành. Nâng cao nhận thức về vai trò của thông tin trong thời kỳ mới, bảo đảm xây dựng hệ thống thông tin phục vụ công tác điều hành được thu thập trên nhiều hình thức (truyền thống và phi truyền thống) đa chiều, đa lĩnh vực, bảo đảm tính cập nhật liên tục nhằm phục vụ công tác điều hành vĩ mô. Đặc biệt quan tâm đầu tư cho hệ thống thông tin dự báo sử dụng công nghệ mới, nhằm khai thác tối đa lợi thế của thông tin và các kỹ thuật tiên tiến, các phương pháp dự báo hiện đại nhằm phục vụ nhu cầu dự báo nhanh và kịp thời. Xây dựng công tác dự báo trên cơ sở dữ liệu lớn (big data) và thời gian thực (real-time) là một nội dung tiên quyết, bảo đảm thành công cho công tác dự báo trong dòng chảy phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi dữ liệu và xử lý dữ liệu trở thành yếu tố then chốt quyết định thành bại trong nhiều lĩnh vực. Trên thế giới đã có nhiều ngân hàng Trung ương sử dụng các bộ dữ liệu lớn trong việc dự báo kinh tế vĩ mô, trong đó dữ liệu lớn cho phép sử dụng rộng rãi các chỉ số để dự báo các chỉ số cơ bản, nghiệp vụ thẻ tín dụng, cũng như nhiều chỉ số truyền thống khác.

Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác dự báo. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác dự báo cần chú trọng trang bị một số kỹ năng cơ bản trong phân tích vấn đề được dự báo cũng như nâng cao kỹ năng thực hành công tác dự báo. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng công tác dự báo phục vụ điều hành vĩ mô cần cập nhật liên tục các phương pháp và mô hình tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt, cần nhấn mạnh và có phương án triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ để đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin, phân tích, dự báo nhanh chóng tiếp cận được với hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và các phương pháp, công cụ dự báo.

Thứ tư, tăng cường đầu tư và xây dựng cơ chế tài chính cho công tác dự báo gắn với hoạt động tổng hợp, phân tích nhằm duy trì và bảo đảm phát triển, nâng cao chất lượng công tác dự báo. Xây dựng cơ chế tài chính nhằm bảo đảm duy trì nguồn lực liên tục cho công tác dự báo. Đa dạng hóa, kêu gọi tài trợ từ các tổ chức trong nước và ngoài nước. Việc triển khai ứng dụng phương pháp và mở rộng xây dựng mô hình dự báo đến đâu phải tùy thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác dự báo và vào nhu cầu khai thác sử dụng kết quả dự báo, phân tích của cơ quan đó, không để tình trạng không có cán bộ đủ năng lực tiếp thu công nghệ xây dựng, khai thác sử dụng phương pháp, mô hình dự báo; khắc phục tình trạng có những mô hình dự báo đã được đầu tư cả về kinh phí và chuyên gia, nhưng không được thường xuyên ước lượng lại và duy trì phát triển.

Thứ năm, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về công tác dự báo. Tạo điều kiện để các cơ quan, đơn vị làm công tác dự báo hợp tác, nhận hỗ trợ kỹ thuật về công tác dự báo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dự báo từ các cá nhân, tổ chức quốc tế theo quy định của pháp luật./.

Nguồn:Tạp chí Cộng sản
Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image




Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
Đăng nhập