Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan
trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận
khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết
thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin đề cập
một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào
trả lời mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường
xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?
Như chúng ta đã biết,
chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học
thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi
tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tuỳ theo thế giới quan và trình độ
phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ
nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?
Trước đây, khi còn Liên
Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được
khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước
Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ
nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo,
thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí
hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách
mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ
nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần
phải đi con đường khác. Có người còn phụ hoạ với các luận điệu thù địch, công
kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có
người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã
hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ
nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt
đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?
Chúng ta thừa nhận
rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát
triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát
triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình
thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Từ giữa
thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện
mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách
"tự do mới" trên quy mô toàn cầu và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng
phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu
thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt
là, năm 2008 - 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy
thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản
chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước,
các Chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các
tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng,
thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công. Và hôm nay, chúng ta lại
chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh
tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công
xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân cư lao động bị
giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng
lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Những tình
huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát triển",
từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các
xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống
chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự
thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp
giải quyết được những khó khăn và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn
hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động
và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô
hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính
khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.
Cùng với khủng hoảng
kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái, ... đang
đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm
mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng
làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng
chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản
chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không
bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà
khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một
cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Các phong trào phản
kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian
qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ
nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự
do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo
đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố
bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số
giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất
nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu
sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông
tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân
sâu xa dẫn đến phong trào "99 chống lại 1" diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011
và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền
nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn
đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống
chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân
sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được
gọi là "tự do", "dân chủ" dù có thể thay đổi chính phủ
nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng
trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.
Chúng ta cần một xã hội
mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận
mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về
kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng
cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn
kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không
phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của
một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hoà
với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại
và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật
chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị
mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân
dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt
đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là
mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa
chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Như chúng ta đều biết,
nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó
khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân,
đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước,
vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần "Không có gì quý hơn Độc
lập Tự do".
Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng,
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc
rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt
để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và
hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
Ngay khi mới ra đời và
trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn
khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất
yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa". Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng,
thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng
định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh". Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử".
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã
hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà chúng ta luôn
luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối,
quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa
phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trong những năm tiến
hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng
sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một
số quan niệm đơn giản trước đây như: Đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa
xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản
xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực
lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành
phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà
nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Cho đến nay, mặc dù vẫn
còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành
nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu
xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Để thực hiện được mục
tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Càng đi vào chỉ đạo
thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một
sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu
sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất
nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng
khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế
độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu,
những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa,
chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt
được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những
thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.
Đưa ra quan niệm phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất
cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực
hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế,
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong
lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân
theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt,
chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả
ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát
triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo
động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản
lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và
lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội.
Một đặc trưng cơ bản,
một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị
trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế
với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát
triển. Điều đó có nghĩa là: Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát
triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy
sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn
thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển
xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền
vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là
một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta coi văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước
và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa
dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,
tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã
hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình
độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác
định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển
văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi
mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng
đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát
triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững
chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa
là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích
chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về
chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân
và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì
đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về
mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta
chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên
minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà
nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực
hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản
lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản
chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai
cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số
nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân
dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành
động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại
đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy
sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.
Nhận thức sâu sắc sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi
mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm
vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra
đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân
thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai
cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách
sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống
nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và
chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức,
kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng,
quan liêu, thoái hoá v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng
sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu,
lãng phí, thoái hoá v.v... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính
trị.
Công cuộc đổi mới,
trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm
qua.
Trước Đổi mới (năm
1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề,
để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh
thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh
hiểm nghèo và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất
độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt
Nam. Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn
sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây
đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực
và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực,
hàng hoá nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn,
khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện đường lối
đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương
đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm.
Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở
thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng
khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập
thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam
không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển
khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm
khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540
tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng
mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt
gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện
quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ
kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư
nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện dân số của Việt
Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống
ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân.
Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống
còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn
nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông
thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện
lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại.
Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả
các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học
vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại
học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người
lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp
dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế
phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.
Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người
nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ
lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi
thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng
nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn
những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần
mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hoá cũng được cải thiện
đáng kể; sinh hoạt văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng
70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công
nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một
trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc
nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ
phát triển.
Như vậy, có thể nói,
việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức
sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được
tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện,
nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an
ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và
lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006)
đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử". Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt
Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước
đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình,
hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam
đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có
hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn
nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những
kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và
bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: "Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện
thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát
triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự
khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản
phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền
bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục
khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp
với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời
đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh
chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta
vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng
để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 -
26).
Bên cạnh những thành
tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và
đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.
Về kinh tế, chất lượng
tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu
đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp
nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý,
điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn
ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách
giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công
ích khác còn không ít hạn chế; văn hoá, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội
phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng,
lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch
lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện
âm mưu "diễn biến hoà bình" nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đảng ta nhận thức rằng,
hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và
phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các
nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng
phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập
quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực,
thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu
quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới,
bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ
nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công
hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh
chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hiện nay, chúng ta đang
tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo
hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là:
Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết
là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả
về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 - 338). Về xã
hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất
lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống
văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và
đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực
hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức
đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách
mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn
đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về
chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ
đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu
dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối
đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng
tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và
nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng
đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của
thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo
và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách,
không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải
nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong
thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc
không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của
thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở
tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan
trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được
những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và
có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của
khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần
phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ
nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm
sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc
hậu so với cuộc sống.