Giữ vững nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền theo quy định của Hiến pháp
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời tạo nên sự khác biệt lớn nhất giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nhà nước pháp quyền ở các nước tư bản phương Tây. Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền không có nghĩa là làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, mà góp phần quan trọng nâng cao vị thế, năng lực lãnh đạo của Đảng, củng cố địa vị cầm quyền của Đảng, hoàn thành sứ mệnh tiên phong của Đảng. Trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp (ngày 24-8-2015), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định và nhấn mạnh nội dung mang tính nguyên tắc này: “… trong bất luận hoàn cảnh nào, phải kiên định lập trường tư tưởng, luôn giữ vững mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng ta trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật pháp của nước ta… Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một nhà nước thực sự kiến tạo khuôn khổ thể chế, pháp luật cho sự phát triển của đất nước, của dân tộc… Nhưng phải luôn nhớ là Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho Nhà nước vận hành trôi chảy, vừa tiếp nhận, phát triển những giá trị đã được khẳng định của văn minh nhân loại, vừa phải phù hợp với những giá trị tốt đẹp của truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của chế độ ta, đất nước ta trong giai đoạn phát triển mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, rất hệ trọng”(1). Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ, phát huy quyền con người, quyền công dân, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước trở thành phương thức quan trọng hàng đầu trong các phương thức lãnh đạo của Đảng, khẳng định địa vị cầm quyền của Đảng khi quyền lực chính trị được chính danh hóa trong quyền lực công; và nhờ đó, đường lối của Đảng được thể chế hóa, nguồn lực và sức mạnh của Nhà nước được sử dụng để phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là tất yếu khách quan, thể hiện tính chính danh về sự cầm quyền được hiến định, được lịch sử lựa chọn, nhân dân tin tưởng trao trọng trách và tuyệt đối tin theo, nhất là được kiểm chứng trên thực tiễn bằng bản lĩnh, uy tín, năng lực, đạo đức của một đảng cách mạng chân chính, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền vì lợi ích của quốc gia - dân tộc, vì ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Nhân dân là cơ sở xã hội, là nguồn sức mạnh hùng hậu của Đảng, bởi vậy, phục vụ nhân dân là lý do tồn tại của Đảng. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải hợp lòng dân, xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân, "ý Đảng" phải gắn với "lòng dân". Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm bảo đảm Nhà nước luôn là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, hoạt động đúng Hiến pháp, pháp luật, làm tốt hơn việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mọi tổ chức và cá nhân, vì tự do, hạnh phúc của con người và sự phát triển bền vững của đất nước. Thước đo tính đúng đắn, uy tín lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cuối cùng phải được thể hiện ở hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Năng lực, hiệu quả hoạt động, uy tín xã hội của Nhà nước không chỉ do các tổ chức đảng đánh giá, mà còn dựa vào sự đánh giá công khai, dân chủ của người dân, cộng đồng và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không chỉ ở cấp trung ương, mà ở cả cấp địa phương, thể hiện trong mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức đảng và các cơ quan, tổ chức nhà nước các cấp. Trên cơ sở Cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và các thiết chế khác trong hệ thống chính trị. Đó là những phương hướng lớn cho sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, là những quan điểm cơ bản của chính sách đối nội và đối ngoại. Cương lĩnh, chiến lược, đường lối đúng đắn, khoa học và phù hợp xu thế thời đại là điều kiện cơ bản để Đảng phát huy được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Đây cũng chính là vị thế, trách nhiệm, quyền lực chính trị, tính chính danh của Đảng(2).
“Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp”(3). Trách nhiệm của Nhà nước là phải kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành các chính sách, pháp luật và tổ chức thi hành các chính sách, pháp luật đó một cách kịp thời, triệt để. Lãnh đạo việc thể chế hóa đó là một nội dung quan trọng trong sự cầm quyền của Đảng, thể hiện sự cầm quyền của Đảng bằng pháp luật, hay nói cách khác, ý chí của Đảng được thực hiện bằng tất cả sức mạnh của luật pháp. Sự lãnh đạo này bảo đảm cho luật pháp được thực hiện công bằng, không thiên vị, phản ánh đúng nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; loại trừ các biểu hiện “lợi ích nhóm” có thể bị “cài cắm” trong hoạch định chính sách, pháp luật, nhất là trong điều kiện “nhóm lợi ích” có sự vận động phức tạp, tìm cách hướng lái chính sách, pháp luật để trục lợi, gây tổn hại đến lợi ích chung.
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Tuy nhiên, sự lãnh đạo này luôn luôn mang tính chất chính trị. Điều đó có nghĩa là, Đảng xác định mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, sao cho Nhà nước thật sự là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể hiện tập trung và đầy đủ nhất ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân; vạch ra đường lối chiến lược về đối nội, đối ngoại để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật ấy; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Nhà nước, giới thiệu đảng viên ưu tú và người ngoài Đảng đủ năng lực, phẩm chất để cử tri bầu vào các cơ quan dân cử hoặc để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, bố trí vào những vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước; giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên và quần chúng; kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Để thực hiện thành công vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, Đảng sử dụng các phương pháp chủ yếu như tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục và tự nêu gương của đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước. Mọi tổ chức của Đảng đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật(4).
Muốn thực hiện tốt nguyên tắc đó, đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm của tất cả các chủ thể, bao gồm Đảng, Nhà nước và nhân dân, đồng thời phải thực hiện tốt cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đảng phải thường xuyên phân tích, đánh giá, tổng kết thực tiễn để kịp thời đưa ra những quyết sách đúng đắn, nhằm tiếp tục lãnh đạo Nhà nước và vận động, hướng dẫn nhân dân thực hiện. Mặt khác, phải hoàn thiện hệ thống và cơ chế hoạt động để Đảng lãnh đạo toàn diện các mặt của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp. Đồng thời, cần đẩy mạnh thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng thông qua xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước pháp quyền và hoàn thiện hệ thống chính trị đất nước. Chính vì vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần yêu cầu tập trung nghiên cứu, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; trong đó xác định trọng tâm là xây dựng hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, phù hợp, phân quyền, phân cấp khoa học, rõ ràng. Đồng chí nêu rõ: “Cần nêu cao hơn nữa quyết tâm chính trị trong việc hoàn thiện bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị phù hợp hơn với điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Nghiêm túc thể chế hóa và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở và hệ thống các đơn vị sự nghiệp trong cả nước”(5). Thực tiễn đã chứng minh rằng, chế độ chính trị và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nước ta phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của đất nước với tính ưu việt rất rõ ràng.
Kế thừa quan điểm mang tính nguyên tắc đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” đã khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; luôn phải đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(6).
Đặc trưng cốt lõi của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân theo quy định của pháp luật
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhằm quản trị toàn diện đất nước theo pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dân; người dân được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là “Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm để mỗi người dân chủ động, tích cực sử dụng, thực hiện đúng đắn và an toàn các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong làm ăn, sinh sống, đóng góp mọi sức người, sức của, năng lực và trí tuệ xây dựng, phát triển đất nước, thực hiện sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”(7). Điều này cũng có nghĩa là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là Nhà nước mà nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; nhân dân có toàn quyền quyết định tính chất, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, mục tiêu, phương hướng hoạt động, xu hướng phát triển của bộ máy nhà nước, sử dụng bộ máy nhà nước để thực hiện quyền lực của mình và kiểm tra, giám sát sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập; mọi vấn đề quan trọng liên quan đến lợi ích chung của cả nước và của địa phương đều do nhân dân trực tiếp hay gián tiếp thảo luận, bàn bạc, quyết định, thực hiện. Đồng thời, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải có tổ chức bộ máy tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thuận tiện cho nhân dân sử dụng quyền lực của mình và kiểm tra, giám sát hoạt động của chính bộ máy đó; có mục đích hoạt động vì lợi ích của nhân dân; mọi chủ trương, chính sách, pháp luật đều được xây dựng và thực hiện xuất phát từ lợi ích của nhân dân và vì lợi ích của nhân dân; các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác; công cuộc cải cách bộ máy nhà nước hiện nay cũng nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Với sự phát triển của kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao, yêu cầu của người dân về dân chủ, pháp quyền, công bằng, công lý, an ninh và bảo vệ môi trường ngày càng lớn. Vì thế, quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện sự hoàn thiện không ngừng trong lý luận và thực tiễn về xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mục đích của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là nhằm giữ vững và phát huy mạnh mẽ hơn nữa tính nhân dân, tính dân chủ và nhân văn của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng chí nêu rõ mục đích tối thượng này trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị đất nước: “Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế từng bước được xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của Nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”(8). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, tính nhân dân là đặc trưng thể hiện sự khác biệt về mặt bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với nhà nước pháp quyền tư sản: “Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(9). Chính tính nhân dân đã làm cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có được tính dân chủ thực sự và tính nhân văn sâu sắc.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, giữ vững tính nhân dân của Nhà nước là giữ cho Nhà nước luôn luôn là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; là hình ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững tính dân chủ của Nhà nước là giữ cho Nhà nước luôn luôn là nhà nước mà trong tổ chức và hoạt động của nó đều có sự tham gia tích cực và đông đảo của nhân dân; công dân được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp mà Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm, đồng thời, Nhà nước có trách nhiệm mở rộng các quyền, lợi ích hợp pháp đó phù hợp với sự phát triển của xã hội. Giữ vững tính nhân văn của Nhà nước là giữ cho nhà nước luôn luôn là Nhà nước mà mọi chủ trương, chính sách, pháp luật đều xuất phát từ nhu cầu, lợi ích cơ bản và chính đáng của con người và nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích đó; bên cạnh những chủ trương, chính sách, pháp luật có giá trị như nhau đối với mọi người, còn có các chủ trương, chính sách, pháp luật dành riêng cho các đối tượng đặc biệt, người yếu thế, như: người và gia đình có công với cách mạng, trẻ em, người già, người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa...
Việc giải quyết những vấn đề mang tính nguyên tắc đó cũng đã được Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII khẳng định là một nhiệm vụ lớn cần phải nghiêm túc thực hiện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân”(10), với quan điểm bao trùm là “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”(11). Theo đó, Đảng xác định cần thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở; có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; đổi mới cơ chế bầu cử để lựa chọn được những người xứng đáng đại diện cho nhân dân; phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, đề cao đạo đức xã hội và trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân(12),…
Hệ thống pháp luật là xương sống của hệ thống quản trị quốc gia. Do vậy, để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi để tiếp tục thể chế hóa Cương lĩnh chính trị, các quan điểm, đường lối của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Muốn thế, cần bám sát, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và phân tích, nắm chắc yêu cầu thực tiễn cuộc sống; đồng thời tiếp tục tăng cường năng lực và nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật… Tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền con người, quyền công dân”(13).
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn liền với việc giữ vững ổn định chính trị, đổi mới toàn diện hệ thống chính trị, phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước
Thứ nhất, giữ vững ổn định chính trị
Sự ổn định chính trị là một trong những điều kiện quan trọng nhất để xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Vì vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhất định phải được thực hiện trên nền tảng của sự ổn định chính trị: “Giữ vững ổn định chính trị, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”(14). Sự ổn định chính trị phụ thuộc vào sự ổn định của Nhà nước, vì Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là tấm gương hội tụ và phản chiếu tập trung nhất toàn bộ đời sống chính trị của đất nước, là công cụ chủ yếu nhất và có hiệu lực nhất để xây dựng, củng cố, bảo vệ và phát huy nền chính trị xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực chất là một cuộc “cách mạng” trong Nhà nước, do đó, nếu không được tiến hành một cách khoa học thì sẽ làm mất sự ổn định trong Nhà nước, từ đó sẽ làm mất sự ổn định chính trị của cả đất nước.
Thứ hai, đổi mới toàn diện hệ thống chính trị
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bộ phận trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với Đảng cầm quyền và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Sức mạnh của Nhà nước có được là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự tham gia tích cực và sự giúp đỡ to lớn của các tổ chức chính trị - xã hội khác; ngược lại, chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng như mức độ phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xã hội phụ thuộc rất lớn vào hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nhận thức rõ mối quan hệ khăng khít này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định mục tiêu chung là: “Xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa liêm chính, phát triển; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ; xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”(15). Có thể nói, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là kết quả tổng hợp của toàn bộ công cuộc đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Theo Tổng Bí thư, hoạt động của Nhà nước phải bảo đảm yêu cầu: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, hiệu lực, hiệu quả hơn. Xây dựng Nhà nước về cả lập pháp, hành pháp và tư pháp, gắn với đổi mới, hoàn thiện chính quyền các địa phương và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện nghiêm pháp luật theo các nguyên tắc và quy định của Hiến pháp năm 2013”(16).
Thứ ba, phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xây dựng được trên cơ sở nền kinh tế phát triển, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng; ngược lại, nền kinh tế phát triển, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng cũng chỉ có thể được xây dựng khi có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Do đó, cần phải xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng bộ, toàn diện, đồng thời với các mặt hoạt động khác trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Tiếp tục có những chủ trương, giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển văn hóa, xây dựng con người; đổi mới quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phát huy dân chủ, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Ðảng ngày càng trong sạch, vững mạnh”(17). Với ý nghĩa như vậy, bất cứ hoạt động nào của Nhà nước và xã hội liên quan tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội đều phải theo phương châm: Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội là nhằm phục vụ xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là để phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII xác định, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần “đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(18).
Như vậy có thể thấy, quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay với tính chất “là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”(19). Theo đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kết quả tổng hợp của việc thực hiện toàn bộ những phương hướng và giải pháp về phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, pháp luật… dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các luận điểm quan trọng trong hệ thống quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về vấn đề này cung cấp vũ khí tư tưởng - pháp lý, định hướng khoa học, hướng dẫn hành động cho sự phát triển của Đảng và đất nước trong tình hình mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bộ phận quan trọng của mục tiêu tổng thể quản trị đất nước bằng pháp luật, là tiền đề, nền tảng để xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.