Một số giải pháp triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển kinh tế giai đoạn 2021 - 2025
TS. NGUYỄN ĐỨC KIÊN - TS. CHU KHÁNH LÂN - THS. ĐÀO MINH THẮNG
Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ - Bộ phận giúp việc Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra một số mục tiêu cụ thể đối với phát triển kinh tế trong giai đoạn 2021 - 2025, gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 6,5% - 7%/năm; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa khoảng 45%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP. Để hoàn thành các mục tiêu đề ra cần có giải pháp căn cơ nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.
Trước bối cảnh tình hình đại dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam và các nước trên thế giới, để đạt được mục tiêu về kinh tế đã đề ra, cần giữ vững quan điểm lớn trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng để chỉ đạo, điều hành:
Một là, phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước thành hai trụ cột quan trọng của nền kinh tế; không tách biệt riêng rẽ kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác, mà cần xác định được mối quan hệ tương tác giữa chúng, đặt trong sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Hai là, chú trọng phát triển kinh tế bền vững, gắn với các vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu, an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Ba là, chú trọng phát triển nền kinh tế số dựa trên nền tảng tri thức và công nghệ.
Trên cơ sở đó, cần xây dựng kế hoạch hành động cụ thể, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và giám sát thực hiện thể chế; các bộ, ngành và địa phương là cơ quan triển khai để phát huy tính năng động, sáng tạo, đúng đường lối trong thực hiện.
Về phát triển doanh nghiệp và thị trường trong nước
Cần có chiến lược truyền thông để từng bước xóa bỏ sự phân biệt doanh nghiệp theo sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước để hình thành quan điểm thống nhất về sự bình đẳng trước pháp luật của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Trong thực tiễn 35 năm đổi mới, có những ngành, hàng mà Nhà nước tập trung ưu tiên phát triển nhưng do bản thân doanh nghiệp Việt Nam còn yếu nên không tận dụng được cơ hội và chính sách ưu đãi. Ví dụ, ngành công nghiệp sản xuất ô-tô giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2007, cả doanh nghiệp có vốn nhà nước và tư nhân đều gặp khó khăn và trở thành người làm thuê, lắp ráp cho các hãng xe nước ngoài.
Cấu trúc lại mô hình sản xuất theo hướng giữ việc làm ổn định trong các ngành sử dụng nhiều lao động và tăng đầu tư máy móc, thiết bị tiên tiến để nâng cao năng suất và phát triển thị trường. Các quốc gia đi trước tại thời điểm có cùng trình độ phát triển kinh tế như Việt Nam hiện nay (gồm Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia…) đều có chiến lược điều chỉnh sản xuất trong nước theo hướng giảm dần tỷ trọng các ngành sử dụng nhiều lao động để chuyển sang các ngành có hàm lượng vốn và công nghệ cao với năng lực sản xuất công nghiệp tương ứng. Các ngành được tập trung đầu tư kể trên là các ngành có tính liên kết ngành cao, đồng thời đón đầu xu hướng sản xuất và tiêu thụ của thế giới. Đối với Việt Nam, cần xác định các mặt hàng sản xuất chủ lực là những mặt hàng đáp ứng xu thế sản xuất và tiêu dùng cao, như sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, sản phẩm công nghiệp thân thiện môi trường, sản phẩm có tính năng tự động hóa cao… Cần có tiêu chí để đánh giá mức độ liên kết dọc của các ngành này với các ngành trong và ngoài nước theo hướng gia tăng mức độ liên kết tối thiểu với các ngành trong nước theo lộ trình phù hợp.
Cấu trúc lại mô hình tăng trưởng kinh tế hiện dựa vào xuất khẩu có hàm lượng giá trị gia tăng thấp. Độ mở thương mại của Việt Nam ở mức cao, đạt trên 200% GDP, cao hơn nhiều so với các quốc gia có cùng mức độ phát triển. Tuy nhiên, thương mại hàng hóa chiếm tỷ trọng chính (năm 2019 là 94% so với 6% thương mại dịch vụ) và thặng dư thương mại thấp (3,2% GDP). Độ mở thương mại cao trong khi sản xuất trong nước thiếu tính độc lập, tự chủ khiến kinh tế trong nước dễ phải đối mặt với rủi ro từ bên ngoài; tạo ra sự thiếu cân bằng trên thị trường vốn và lao động, do thị trường tài chính và lao động chưa mở cửa tương xứng, tạo áp lực lên cung ứng vốn và bắt buộc phải sử dụng lao động chất lượng thấp. Việt Nam cần có chiến lược kiểm soát cán cân thương mại thông qua chuyển hướng ngành, hàng, thị trường; tập trung vào tạo thặng dư thương mại với các ngành, hàng xuất khẩu có tính chiến lược.
Tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư bằng các biện pháp giảm hệ số sử dụng vốn (ICOR). Trong giai đoạn phát triển nhanh, hệ số ICOR của các quốc gia, như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia đều tỷ lệ nghịch với tốc độ tăng trưởng GDP. Trong đó, ICOR đều ở mức thấp (<4 - 5) và khi nền kinh tế đạt ngưỡng thu nhập trung bình cao, thu nhập cao thì ICOR mới tăng lên. Nhưng hiện nay, Việt Nam đã “rơi” vào khoảng ICOR cao sớm khi chưa đạt mức thu nhập trung bình cao. Mấu chốt của tăng trưởng cao (trong điều kiện nguồn lực đầu tư là hạn chế) là bắt buộc phải giảm được ICOR về mức thấp trong một giai đoạn dài. ICOR phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu gồm chất lượng lao động (hàm lượng tri thức), khả năng phân bổ nguồn lực (phân bổ lao động và vốn), khả năng áp dụng công nghệ. Trong đó, chất lượng lao động phụ thuộc vào giáo dục - đào tạo; khả năng phân bổ nguồn lực phụ thuộc nhiều vào thể chế; khả năng áp dụng công nghệ phụ thuộc vào hai yếu tố kể trên và khả năng lan tỏa công nghệ từ các dự án đầu tư nước ngoài. Đây đều là những yếu tố không thể thay đổi trong ngắn hạn, đòi hỏi thực hiện đồng bộ các chính sách cải cách chất lượng giáo dục - đào tạo, thể chế và thực thi các chính sách đổi mới sáng tạo.
Nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư có sự tham gia của Nhà nước. Nguồn vốn đầu tư có sự tham gia của Nhà nước, gồm đầu tư công, đầu tư theo hình thức đối tác công - tư hoặc đầu tư của doanh nghiệp nhà nước phải thể hiện rõ vai trò và hiệu quả của “vốn mồi” và có tính nghịch chu kỳ chứ không phải thuận chu kỳ như hiện nay(1). Hình thành cơ chế hợp tác đầu tư giữa Nhà nước và các nhà sản xuất “thượng nguồn”, sản xuất “đầu vào” (trong đó Nhà nước sẽ thực hiện đầu tư (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào các hạng mục mà nhà đầu tư tư nhân không thực hiện) để khuyến khích, định hình hướng phát triển của các nhà sản xuất “hạ nguồn”, “đầu ra”, thay vì áp dụng các ưu đãi về đất đai, thuế, lãi suất như hiện nay.
Doanh nghiệp nhà nước cần phân tách thành hai nhóm là doanh nghiệp nhà nước cung ứng các dịch vụ công ích và nhóm doanh nghiệp nhà nước hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, trở thành tập đoàn lớn có sự hỗ trợ của Chính phủ. Nhóm một là các doanh nghiệp giao cho tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý, đầu tư và phát triển. Kết quả hoạt động của nhóm doanh nghiệp này là cơ sở để tổ chức đảng và nhân dân đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền cơ sở. Đối với nhóm hai, cần thực hiện qua cơ chế Nhà nước là một cổ đông nắm giữ cổ phần tại doanh nghiệp, tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp và buộc tuân theo đúng các quy định pháp luật về doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước cần đổi mới trình độ quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, tăng cường tính minh bạch, tự chủ về công nghệ, có năng lực cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường trong nước và thị trường quốc tế, có tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm và dịch vụ cao, có khả năng kết nối với hệ thống doanh nghiệp tư nhân trong nước để hình thành chuỗi sản xuất hiện đại và bền vững.
Xác định mức lãi suất hợp lý của nền kinh tế trong bối cảnh kinh tế vĩ mô, địa chính trị quốc tế biến động để có thể thu hút được nhà đầu tư nước ngoài nhưng cũng khuyến khích được đầu tư trong nước vào các lĩnh vực sản xuất. Mức lãi suất thấp trên thị trường quốc tế sẽ tăng trở lại trong tương lai khi dịch bệnh được kiểm soát, nền kinh tế toàn cầu phục hồi và các chương trình hỗ trợ kinh tế được thu hồi. Mặt bằng lãi suất trên thị trường quốc tế tăng lên sẽ tạo áp lực đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ. Nâng cao chất lượng hoạt động của các định chế tài chính để bảo đảm nguồn vốn cho nền kinh tế và bảo đảm hiệu lực của chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và an ninh tiền tệ quốc gia. Ngoài ra, cần có giải pháp khuyến khích, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp lớn tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, chuyển sang huy động vốn từ thị trường tài chính trong và ngoài nước thay vì vay ngân hàng, giảm tỷ trọng huy động vốn từ trong nước, dành dư địa để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận được vốn trong nước dễ dàng hơn.
Xây dựng thị trường nội địa phát triển vững mạnh dựa trên sự gia tăng nhóm người có thu nhập trung bình khá (còn gọi là tầng lớp trung lưu), giúp nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và ổn định phát triển trước biến động từ bên ngoài. Quá trình phát triển kinh tế vươn lên quốc gia có thu nhập trung bình cao với các ngành sản xuất và dịch vụ hiện đại sẽ thúc đẩy tầng lớp trung lưu liên tục tăng, thậm chí có thể trở thành biểu tượng của sự phát triển nhờ vào sự tận hiến trong lao động và sự hiện đại trong lối sống, văn hóa. Sự kết hợp của hai yếu tố này sẽ thúc đẩy việc mua sắm và tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ hiện đại, cải thiện tiêu chuẩn sống của chính tầng lớp trung lưu và có thể kéo theo các tầng lớp thấp hơn. Nhà nước cũng cần có chính sách thuế phù hợp để đưa tỷ lệ tầng lớp trung lưu đạt 26% vào năm 2026. Do vậy, cần có giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước đẩy mạnh tự sản xuất và cung ứng (với tỷ lệ nội địa hóa cao) các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng, được thiết kế dành riêng, phù hợp với đặc điểm nhu cầu và thu nhập của tầng lớp này. Giải pháp này không chỉ giúp hình thành bệ đỡ cơ sở cho phát triển doanh nghiệp và các ngành, hàng trong nước mà còn giúp giảm sự lệ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu.
Về phát triển kinh tế bền vững
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ phát thải CO2/GDP đầu người cao. Do vậy, Chính phủ cần rà soát, đánh giá lại tổng thể thực trạng phát thải CO2 trên toàn quốc, bổ sung các tiêu chí về giảm sử dụng năng lượng hoặc sử dụng năng lượng hiệu quả hơn đối với các dự án đầu tư cả trong nước lẫn dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chính phủ cũng có thể nghiên cứu việc đánh thuế các-bon như kinh nghiệm trên thế giới để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng.
Nghiên cứu, đánh giá lại cơ cấu vật nuôi, cây trồng tại các vùng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tiến hành chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp với thực trạng hiện nay, ưu tiên xây dựng và phát triển các mô hình kinh tế tập thể, phù hợp với trình độ nhận thức của đa số nông dân.
Rà soát, đánh giá lại toàn diện tác động của chính sách hỗ trợ các đối tượng chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Chuyển hướng các biện pháp từ cứu trợ sang kích thích, khuyến khích sản xuất, kinh doanh để phục hồi nhanh các hoạt động kinh tế bị tổn hại do đại dịch.
Phát triển thị trường tài chính Việt Nam theo hướng hài hòa hơn giữa vai trò của hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán trong huy động và cung ứng vốn. Các thị trường và tổ chức tài chính hoạt động trên thị trường phải được vận hành theo các thông lệ quốc tế, có đủ khả năng chống chịu trước những biến động của thị trường tài chính quốc tế.
Có đánh giá toàn diện về tình hình thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, ngày 21-6-2017, của Quốc hội, “Về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng”, từ đó khẩn trương chỉnh sửa các quy định đang vướng mắc để đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu, bảo đảm sự phát triển ổn định của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Tăng cường giám sát và kiểm soát dòng tiền vào những lĩnh vực rủi ro, như chứng khoán, bất động sản, các khoản vay tiêu dùng vào bất động sản.
Rà soát và xây dựng chiến lược giảm xuất siêu hợp lý sang thị trường Mỹ và châu Âu để xử lý cơ bản các nguy cơ bị áp mức thuế cao hơn.
Về phát triển kinh tế tri thức
Cần xây dựng chiến lược phát triển đổi mới sáng tạo theo trình tự rõ ràng. Theo đó, cần xây dựng bộ tiêu chí về công nghệ để lựa chọn có trọng tâm các dự án FDI, trong đó ràng buộc trách nhiệm chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp tiếp nhận; tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước trong chuỗi cung ứng để lan tỏa công nghệ. Ban hành các chính sách về thuế và ưu đãi để nâng tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp Việt Nam, qua đó thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam có khả năng nghiên cứu và phát triển công nghệ mới cho riêng mình.
Tập trung nguồn lực để cải cách hệ thống đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, chuyển dịch cơ cấu đào tạo sang đào tạo nhân công có tay nghề, có kỹ năng và có khả năng ứng dụng, tiếp nhận công nghệ mới, gắn cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, thực hiện đào tạo có địa chỉ để giảm chi phí đào tạo của doanh nghiệp.
Chính phủ tập trung đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế trong nước, tránh nhập khẩu các công nghệ, giải pháp đã lỗi thời. Bên cạnh đó, phát triển thị trường vốn lành mạnh, hiệu quả, đẩy mạnh công tác hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp thông qua hoạt động của Quỹ khởi nghiệp quốc gia và các chính sách vốn ưu đãi.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế, chính sách theo hướng có những cơ chế mang tính đặc thù, nâng cao năng lực cạnh tranh để tăng cường ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển. Khẩn trương giải quyết các vấn đề pháp lý để đưa khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới (sandbox) vào hoạt động, làm tiền đề cho việc thử nghiệm nhiều phương thức kinh doanh mới.
Thúc đẩy đổi mới sáng tạo quốc gia thông qua chuyển hướng từ chính sách “cung cấp” sang chính sách “yêu cầu”. Thay vì cung cấp các khoản tài trợ cho các nghiên cứu và phát triển (vốn chỉ thúc đẩy hoạt động chứ không phải là công cụ tạo ra kết quả), các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước sẽ đưa ra các vấn đề mà nếu giải quyết được sẽ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của mình và dành ra nguồn ngân sách để tài trợ cho nghiên cứu từ phía các doanh nghiệp, tổ chức. Nếu vấn đề được giải quyết thành công, các doanh nghiệp, tổ chức được quyền sở hữu và thương mại hóa các giải pháp mà họ đề xuất. Đây cũng là quá trình chuyển hướng mô hình doanh nghiệp là trung tâm của phát triển khoa học - công nghệ thay vì mô hình các viện, trung tâm nghiên cứu và các trường đại học độc lập với thị trường như hiện nay.
Một số giải pháp khác
Ưu tiên cải cách thể chế theo hướng đồng bộ dựa trên nền tảng Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và các quy định pháp luật về tổ chức nhà nước hiện hành. Cần rà soát tất cả các quy định liên quan đến vận hành của năm loại thị trường, gồm hàng hóa, tài chính, lao động, công nghệ và bất động sản để đồng bộ hóa theo hướng giảm can thiệp của Nhà nước, tăng tính thị trường, phát huy vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia trên nền tảng quan hệ dân sự. Đây là nội dung quan trọng trong nhiệm vụ triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Rà soát, đánh giá lại hiệu quả của các gói tài khóa hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, trong đó tập trung xử lý các điểm nghẽn về thủ tục hành chính để giải quyết dứt điểm khối lượng tồn đọng của các gói này. Với khoảng 5 triệu hộ sản xuất, kinh doanh cá thể đang là lực lượng chính tạo ra GDP và việc làm cho nền kinh tế, cũng đang là thành phần bị tổn thương lớn do đại dịch gây ra, Chính phủ cần xem xét tiếp tục triển khai các chính sách hỗ trợ tài chính để giúp họ vượt qua khó khăn.
Tiếp tục thúc đẩy đầu tư công vào các dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm có sức lan tỏa lớn. Bên cạnh đó, cần bổ sung, sửa đổi các quy định nhằm thu hút khu vực tư nhân đầu tư vào kết cấu hạ tầng, nghiên cứu thiết lập các quỹ đầu tư tư nhân vào kết cấu hạ tầng, cho phép phát hành trái phiếu riêng lẻ huy động vốn cho kết cấu hạ tầng, ngay sau khi dự án được cấp thẩm quyền phê duyệt (thay thế quy định hiện hành chỉ cho phép phát hành trái phiếu sau khi dự án đã hoàn thành).
Kết nối kinh tế địa phương và kinh tế ngành vào kinh tế vùng, kinh tế đất nước dựa trên lợi thế cạnh tranh của từng ngành, địa phương, vùng, đặt trong lợi thế cạnh tranh của đất nước. Hiện đang phổ biến tình trạng các địa phương hình thành cơ cấu sản xuất giống nhau, kéo theo các chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng và thu hút lao động giống nhau, gây lãng phí nguồn lực và giảm tính hiệu quả của quá trình phân công sản xuất. Định hướng phát triển bên trong từng địa phương và kết nối kinh tế giữa các địa phương phải dựa vào lợi thế cạnh tranh của từng địa phương, từ đó hình thành chuỗi giá trị trong nội bộ và giữa các địa phương. Nhà nước chỉ định hướng và khuyến khích phát triển các vùng kinh tế, còn nhiệm vụ phát triển kinh tế địa phương giao về cho chính quyền địa phương tự xác định trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của mình phù hợp với lợi thế cạnh tranh của vùng. Tương tự, từng ngành khi xây dựng chiến lược phát triển của ngành mình phải bảo đảm tính liên thông với các ngành khác, hài hòa với nguồn lực của quốc gia để bảo đảm tính khả thi và tương hỗ.
Thúc đẩy đô thị hóa theo hướng các đô thị vệ tinh, tránh tập trung vào vùng lõi đô thị, đi liền với kết nối kinh tế, tích tụ quy mô lớn về vốn, lao động và công nghệ. Tại các đô thị, quá trình tích tụ diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ thông thường mà thiếu hụt tích tụ trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ chất lượng cao. Các khu công nghiệp nằm ở xa đô thị lớn nơi có lực lượng lao động dồi dào, các trung tâm nghiên cứu, cơ sở giáo dục - đào tạo, gây ra tình trạng phát triển phân tán và thiếu tính kết nối, làm thất thu sản lượng, tắc nghẽn ở các cửa ngõ, ô nhiễm môi trường. Cần tận dụng quá trình đô thị hóa để tập trung dân số có sức mua lớn, lao động có kỹ năng, doanh nghiệp có công nghệ, các cơ sở giáo dục - đào tạo có năng lực nghiên cứu để hình thành thị trường lao động đa dạng, linh hoạt; thị trường các ý tưởng, phát minh được hình thành, trao đổi và áp dụng; các mạng lưới sản xuất và dịch vụ hiện đại gắn với thị trường tiêu thụ lớn. Các đô thị lớn phải trở thành nơi xuất phát và là nơi đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng lớn của người dân và doanh nghiệp thông qua các kết nối hiệu quả với các trung tâm sản xuất tại đô thị vệ tinh; trung tâm nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo của vùng kinh tế và cả nước; trung tâm kết nối các dịch vụ chất lượng cao với khu vực và thế giới. Cần xác định và ưu tiên phân bổ ngân sách (tính theo bình quân đầu người) đối với hai đô thị trọng điểm là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để ưu tiên vốn đầu tư kết cấu hạ tầng nhằm giải quyết tình trạng tắc nghẽn, phát triển kinh tế toàn diện và tăng tính kết nối với các địa phương lân cận; các đô thị cấp hai, như Quảng Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ… hình thành vai trò trung tâm trong kinh tế vùng, thúc đẩy các vùng này phát huy lợi thế cạnh tranh của riêng mình. Ngoài ra, cần giảm thiểu chi phí kinh tế và chi phí xã hội cho lao động di cư bắt nguồn từ các quy định về đăng ký cư trú và sử dụng các dịch vụ công, phát triển hệ thống nhà ở xã hội cho người lao động với giá thuê theo thu nhập…
Tập trung phát triển giao thông đường sắt và đường thủy nội địa, đặc biệt là trong vận tải hàng hóa nhằm tiết giảm chi phí vận chuyển. Bên cạnh đó, cần nâng cấp, sửa chữa các nhà ga, bến đỗ theo hướng đồng bộ, hiệu quả để vừa nâng cao hiệu quả thương mại, vừa là động lực phát triển kinh tế. Trong kế hoạch 5 năm 2021 - 2025 trình Quốc hội thông qua chủ trương xây dựng đường sắt khổ 1.435mm đường đôi tuyến Bắc - Nam, theo hướng đây là động lực nhằm phát triển công nghiệp trong nước./.
-----------------------
(1) Các nước khi chuyển từ nhóm đang phát triển lên phát triển sẽ chuyển chính sách ngân sách từ thuận chu kỳ sang nghịch chu kỳ
- Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn/ -
|
|
-
Đang online:
0
-
Hôm nay:
1
-
Trong tuần:
0
-
Tất cả:
0
|
|