Một số dự báo về kinh tế thế giới và rủi ro suy thoái có thể xảy ra
1. Tình hình phát
triển kinh tế-xã hội thế giới đã trải qua giai đoạn hồi
phục đáng khích lệ và đã chuẩn bị một số điều
kiện cần cho sự phục hồi trong dài
hạn. Tuy nhiên, đi kèm với đó là một số bất lợi như rủi ro lạm phát và sâu hơn
là suy thoái kinh tế. Với việc kinh tế thế giới có thật
sự rơi vào suy thoái hay không phụ thuộc vào lựa
chọn của các bên trong cuộc xung đột
Nga - Ukraine, cũng như căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Trong hơn 2 năm qua,
kinh tế thế giới đã trải qua nhiều biến cố lớn
với cú sốc kép từ đại dịch Covid-19 và căng thẳng địa - chính tri, quân sự với điểm nóng là cuộc xung đột Nga -
Ukraine, cùng với đó là căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc và chính sách "Zero Covid" chống
dịch của Trung Quốc đã làm trầm trọng hơn các thách
thức với chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đầu
năm 2020, đại dịch Covid-19 khởi phát, sau đó bùng nổ trên toàn cầu
đã gây đình trệ, thậm chí đóng băng đáng kể các hoạt động kinh tế
trong một thời gian dài, đặc biệt trong giai đoạn đầu
của dịch. Các hoạt động kinh tế đình trệ trên cả phía cung và
phía cầu. Chuỗi cung ứng toàn cầu
bị gián đoạn khi các nước tiến hành các chính sách chống dịch
và áp đặt các lệnh phong tỏa, hay nhẹ hơn
là các hạn chế lưu thông ở các mức độ khác
nhau, tại những thời điểm khác nhau. Cùng với đó, dịch
bệnh làm cho nguồn nhân lực nói chung, đặc biệt trong lĩnh
vực logistics bị thiếu hụt
nghiêm trọng, không thể bổ sung kịp thời. Hệ quả là, chuỗi cung ứng bị gián
đoạn ở cả khâu cung ứng đầu vào sản xuất, cũng như việc đưa hàng hóa, dịch vụ
đến với thị trường đầu ra.
Về
phía cầu, một mặt, dịch Covid-19 làm cho việc tiếp cận hàng hóa và dịch vụ tiêu
dùng khó khăn; mặt khác, hệ quả của dịch bệnh đã khiến thất nghiệp gia tăng.
Chẳng hạn, thất nghiệp tại Mỹ đã tăng phi mã từ khoảng 4% cuối năm
2019 lên khoảng 12% - 14% vào tháng 04/2020, ngay giai đoạn đầu
của đại dịch, khiến cho thu nhập của các cá nhân và hộ gia đình nói chung bị
tổn thương nghiêm trọng.
Sự ảnh hưởng của đại
dịch Covid-19 nhanh và mạnh ngay từ giai đoạn đầu cũng làm
suy giảm nghiêm trọng niềm tin kinh doanh và tiêu dùng, nền tảng của tăng
trưởng kinh tế. Trong 6 tháng từ tháng 02 - 7/2020, chỉ số Niềm tin kinh doanh
(BCI) và Niềm tin tiêu dùng (CCI) đã giảm 2% - 3%, gây ra
thách thức cho việc duy trì vòng quay kinh doanh tiêu dùng.
Trong bối cảnh đó,
các nước đã nhanh chóng triển khai các gói hỗ trợ, kích
thích kinh tế trên cả phía cung cũng như phía cầu. Tại Mỹ, Chính phủ đã có
những phản ứng chính sách về tiền tệ cũng như tài khóa. Các
biện pháp kích thích về tiền tệ của Cục
Dự trữ liên bang (FED) bao gổm: cắt giảm lãi suất, tín dụng
và mua tài sản, thay đổi các quy định điều tiết. Ngay
trong tháng 3/2020, FED đã cắt lãi suất tiêu chuẩn hai lần,
lần đầu 0,5% và lần
thứ 2 là 1 % (FED, 2020). Đây là một
hành động đáng kể trong chính sách tiền tệ từ phía FED, bởi tổ chức này đã
không áp dụng mức tăng/giảm lớn như vậy (>0,25%)
trong mỗi lần điều chỉnh lãi
suất kể từ cuộc đại khủng khoảng 1929-1933.
Về
mặt tài khóa, ngay trong tháng 3/2020, Chính phủ
Mỹ đã thông qua 3 gói cứu trợ chính, trong đó gói CARE (Coronavirus Aid, Relief and Economic Security Act) ở giai đoạn 3 có giá trị gần
2,08 nghìn tỷ USD (80% của tổng 4 gói) là lớn nhất
và một gói bổ sung vào tháng 4/2020, hay còn gọi là "giai đoạn kích thích
3,5”, với tổng giá trị lên
đến gần 239 nghìn tỷ USD.
Một số
điều chỉnh và bổ
sung trong chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế
của Mỹ và các nước tiếp diễn
cho đến gần đây,
khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra làm giá dầu và năng lượng nói chung
tăng phi mã, từ trên
dưới 70 USD/thùng tháng 11-12/2021 lên hơn 120 USD/thùng ở một số thời điểm và
hiện nay đang giữ ở mức trên dưới 100 USD/thùng. Cùng với đó là chính sách “Zero Covid" của Trung Quốc
và những hệ quả bất lợi của các kích thích kinh tế nóng như lạm phát
đối với các nước, đặc Biệt là Mỹ và
Châu Âu – những nước triển khai sớm các gói kích thích. Tất cả những vấn đề
này đã gây nên một sức ép kép đối với nền
kinh tế thế giới trong đà hồi phục, làm trầm trọng hơn những vấn đề
cần giải quyết khi đang phải đối mặt với bài
toán giữa tăng trưởng và lạm phát. Điều này làm dấy lên những lo ngại về
một cuộc suy thoái toàn diện, khi những vấn để cũ chưa được giải quyết đã xuất
hiện những vấn đề mới.
Các biện pháp
của các quốc gia đã
phần nào có hiệu quả, duy trì sức cầu, hỗ trợ và
thúc đẩy cung, giữ kết nối cung – cầu để chờ đợi
thời điểm các hoạt động nói chung, hoạt động kinh tế nói riêng trở lại bình
thường, bắt đầu giai đoạn
phục hồi kinh tế. Tất nhiên, cùng với hiệu ứng tích cực của các biện pháp hỗ
trợ, kích thích kinh tế, vẫn còn tiềm ẩn khả năng lạm phát khi tiền được
"bơm" vào nền kinh tế nhiều hơn khả năng hấp thụ và
chuyển hóa của nó. Rủi ro lạm phát
là một vấn đế hiện hữu khi các nền kinh tế lớn
như Mỹ và EU, nơi các gói hỗ trợ và
kích thích kinh tế được triển khai sớm và tích cực nhất.
Về mặt tích
cực, các gói kích thích đã có tác động tích cực đến việc làm, niềm tin kinh doanh,
tiêu dùng và đấu tư nói chung. Niềm tin kinh
doanh và tiêu dùng tăng liên tục từ tháng 7/2020 đến tháng 7/2021 trở về mức
trước khi đại dịch Covid-19 xảy ra. Bên
cạnh đó, thất nghiệp sau mấy tháng đầu tăng phi mã
lên hơn mức 10%, đã bắt đầu giảm từ
giai đoạn tháng 8 -10/2020 và đến tháng 12/2021 đã
trở về mức xấp xỉ 4% trước đại dịch. Nhất quán với các diễn biến đó, các dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hồi
phục mạnh mẽ trong năm 2021, đạt gần 1.600 nghìn
tỷ USD, vượt qua trạng thái trước dịch, cao hơn các năm 2018 -2019 và xấp xỉ mức đỉnh năm 2017 của giai đoạn 5 năm 2017 - 2022
Năm 2021, sự tăng trưởng
kinh tế thế giới khá tích cực, đạt mức 6,1%.
Trong đó, các nước phát
triển đạt 5,2%, các nước mới nổi và đang phát triển đạt mức
6,8%, còn các nước châu Á tăng trưởng mạnh mẽ nhất ở mức 7,3%.
Đây là mức tăng trưởng dương rất đáng khích lệ, đặc biệt so với năm
2020 khi kinh tế thế giới tăng trưởng âm ở mức - 3,1%, trong đó các
nước phát triển là - 4% và các nước mới nổi và đang phát triển là - 2,1%.
Thời gian gần
đây, sau khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra, mang theo
những hệ lụy về giá dầu và năng
lượng nói chung, mức siêu lạm phát của kinh tế Mỹ được
nhắc đến nhiều hơn, cùng với đó là việc giá năng
lượng tăng với mức lạm phát 34,6% vào tháng 5/2022 và 41,6% vào tháng 6/2022.
Trong bối cảnh đó,
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã
có những điều chỉnh trong dự báo tăng trưởng kinh tế toàn
cầu. Theo dự báo mới của IMF, kinh tế toàn
cầu sẽ tăng trưởng 3,6% năm 2022 và năm 20 23.
Trong đó, các nước phát triển được dự báo tăng trưởng 3,3% năm 2022 và 2,4% năm
2023, giảm lần lượt 0,6% và 0,2% so với dự báo trước; các
nước mới nổi và đang phát triển được dự báo tăng trưởng 3,8% năm 2022 và 4,4%
năm 2023, giảm lần lượt 1% và 0,3% so với dự báo trước.
Tất cả những điều
chỉnh trong dự báo đó đương nhiên là có cơ sở và
thể hiện rủi ro về một cuộc suy thoái sâu, khi các vấn đề
về xung đột địa - chính trị, rủi ro khủng hoảng
năng lượng làm trầm trọng thêm những vấn đề phát sinh do
đại dịch Covid-19 và hiệu ứng phụ của các gói kích thích kinh tế gây ra.
Lạm phát vốn
dĩ đã bắt đầu tăng từ tháng 3/2021 và đã sớm ở mức khá cao, xấp xỉ 6% vào tháng 9/2021 và
7,5% tháng 01/2022, thời điểm trước
thi xung đột Nga- Ukraine diễn ra. Phù hợp với diễn biến vè lạm phát,
niềm tin kinh doanh và tiêu dùng, sau thời gian hồi phục từ tháng 7/2022 –
7/2021 đã bắt đầu suy giảm trở lại từ tháng 7/2021, rất lâu trước khi cú
sốc kép xung đột
Nga – Ukraine. Đối phó với rủi
ro này, từ giữa năm 2021 các nước, đặc biệt là Mỹ đã lên
kế
hoạch và khởi động các biện pháp thắt chặt tiền
tệ và tài khóa bao gồm việc nâng lãi suất.
Với các phân tích nêu
trên cho thấy, mức lạm phát hiện nay không quá cao so với mức trước khi có
cú sốc kép. Nói cách khác, những vấn đề
liên quan đến lạm phát cao đối
với nền kinh tế hiện nay xuất phát từ những rủi ro
có nguyên nhân căn bản. Chính sách tiền tệ thắt chặt và chi phí sinh hoạt tăng
cao là các nguyên nhân cơ bản liên quan đến rủi ro kinh tế rơi vào suy thoái
trong thời gian tới.
2. Điểm lại diễn biến kinh tế
thế giới 2 năm vừa qua kể từ khi đại dịch
Covid-19 diễn ra và sau đó là xung đột Nga - Ukraine khởi phát từ tháng
02/2022, có thể đúc kết một số vấn đề đáng chú ý:
Một là, mặc dù rủi ro suy
thoái là hiện hữu, có thể nhận thấy một số điểm sáng: (1) Mặc dù cả chỉ
số niềm tin kinh doanh và tiêu dùng cùng suy giảm từ tháng 7/2021, tuy nhiên
niềm tin kinh doanh suy giảm ở mức độ vừa phải hơn. Như vậy, một mặt, cần
tiếp tục thúc đẩy niềm tin kinh doanh, mặt khác, cần
xác định được niềm tin tiêu dùng là đối tượng chính cần
tác động để duy trì vòng quay tiêu dùng - đầu tư; (2) Tương thích với nhận định
về niềm tin kinh doanh ở trên, FDI khôi phục mạnh mẽ trong năm 2021, đạt xấp xỉ
của mức đỉnh 5 năm trước đại dịch, lên gần
1.600 nghìn tỷ USD. Đây là một
xu thế cần tiếp tục theo dõi và thúa đẩy; đẩy; (3) Giá dầu mặc dù đã
có lúc tăng 120 USD/thùng,
nhưng hiện nay đã chững lại và
giữ ở mức trên dưới 100 USD/thùng. Đây có phải là
dấu hiệu khủng hoảng xung đột Nga - Ukraine và nhưng hệ lụy liên quan đến năng
lượng và giá dầu nói riêng có thể được kiêm soát? Đối với vấn đề
này, cần có những phân tích cụ thể với nhiều dữ liệu
và thông tin hơn.
Hai là, rủi ro về một cuộc
suy thoái kinh tế có thể xảy ra. Rủi ro đó đã xuất hiện từ giữa năm 2021 khi
lạm phát bắt đầu tăng ở các nền kinh tế lớn và đã bắt đầu
các gói kích thích, hỗ trợ phục hồi kinh tế sau đại dịch
Covid-19 như Mỹ và các nước EU.
Ba là, cú sốc kép liên
quan đến xung đột Nga - Ukraine và những hệ lụy như vấn đề giá dầu và
rủi ro khủng hoảng năng lượng làm trầm trọng thêm những vấn đề mà hiệu ứng phụ
của các gói kích thích kinh tế gây ra. Tuy nhiên, vấn đề
căn bản và dài hạn vẫn nằm ở tự thân các chính sách khôi phục kinh tế sau đại
dịch của các nước. Nhằm làm rõ hơn điều này, cần nhấn mạnh, lạm phát trong lĩnh
vực năng lượng đã ở mức cao 27,0% vào tháng 01/2022, trước khi xảy ra xung đột
Nga - Ukraine cũng cho thấy, giá dầu WTI tăng
liên tục từ tháng 7/2020, một thời gian ngắn sau khi đại dịch nổ ra và sớm trở
về mức trước đại dịch là trên dưới 60 USD/thùng vào
tháng 3 - 4/2021. Hai tháng trước khi xung đột nổ ra, giá dầu
đã tăng từ 60 USD/thùng lên xấp xỉ 80 USD/thùng. Trước đại dịch Covid-19, giá
dầu không ở mức thấp; điều đó cũng cho thấy, vấn đề
năng lượng và chuyển đổi năng lượng là vấn đế có tính lịch sử, lâu
dài.
Nguồn:Cuốn Thông tin
Báo cáo viên số 9 năm 2022