Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp(25/8/1911-25/8/2021)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người học trò xuất sắc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn, sinh ngày 25/8/1911, tại xã Lộc
Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Sinh ra trong một gia đình, một vùng quê giàu truyền thống yêu nước,
trực tiếp chứng kiến cảnh đồng bào bị bè lũ thực dân và tay sai đàn áp, bóc lột
đã nung nấu trong Võ Nguyên Giáp ý chí sôi sục và quyết tâm đứng lên đấu tranh
giành lại độc lập cho dân tộc.
Năm 1925, khi còn là học sinh, do sớm được tiếp thu tư
tưởng cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp đã tích cực tham gia
phong trào đấu tranh, bãi khóa ở trường Quốc học Huế; tham gia Đảng Tân Việt
cách mạng (năm 1927); tham gia phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, bị thực dân Pháp
bắt giữ và bị giam ở nhà lao Thừa Phủ, Huế (năm 1930). Cuối năm 1931, nhờ sự can
thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, đồng chí được trả tự do. Khi ra tù, mất liên
lạc với tổ chức, đồng chí ra Hà Nội dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, viết
báo tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh, đồng thời
tiếp tục học Đại học Luật và Kinh tế.
Năm
1940, đồng chí Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng với đồng chí
Phạm Văn Đồng được cử sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tháng 11/1941, trở về Cao Bằng, dưới sự lãnh đạo,
dìu dắt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí
khác xây dựng cơ sở cách mạng, tích cực tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, vận
động đồng bào các dân tộc tham gia các hoạt động cách mạng, tổ chức và phụ
trách Ban xung phong Nam tiến, mở đường nối căn cứ địa cách mạng Cao Bằng với
các tỉnh miền xuôi.
Tháng
12/1944, đồng chí Võ Nguyên Giáp được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ thành
lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân của Quân đội
Nhân dân Việt Nam. Ngay sau đó, đồng chí đã chỉ huy Đội đánh thắng hai trận đầu
ở Phai Khắt, Nà Ngần. Trên các cương vị là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương,
Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, thành viên Ủy ban khởi nghĩa
toàn quốc, thành viên Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Tư lệnh Việt Nam giải
phóng quân, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc
Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngày
19/12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ. Dưới sự chỉ đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với cương vị Tổng tư lệnh Quân đội kiêm Bí thư
Quân ủy Trung ương, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã cùng Trung ương Đảng lãnh đạo
cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -
1954) giành thắng lợi. Ngày 28/5/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì lễ phong
hàm Đại tướng đầu tiên của Quân đội ta cho đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Với
vai trò là Tổng Tư lệnh chiến dịch, Bí thư Đảng ủy, Đại tướng đã chỉ huy nhiều
chiến dịch quan trọng, như: Chiến dịch Biên Giới (9-10/1950), Trung Du
(12/1950), Đồng Bằng (5/1951), Hòa Bình (12/1951- 2/1952), Tây Bắc
(10-12/1952), Thượng Lào (4-5/1953). Đặc biệt, năm 1954 được Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh tin tưởng trao quyền trực tiếp chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ,
Đại tướng đã chỉ huy các đại đoàn của Quân đội và các lực lượng tiến công tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề của thực dân Pháp, góp
phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta làm nên Chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến tranh,
khôi phục hòa bình ở Đông Dương, giải phóng hoàn toàn miền Bắc nước ta.
Hiệp
định Giơnevơ ký kết chưa được bao lâu thì đế quốc Mỹ đã nhanh tay hất cẳng
Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự Mỹ, âm mưu chia cắt lâu dài
đất nước ta. Trước tình hình cách mạng mới, Đại tướng đã cùng Trung ương Đảng
lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân ở miền Nam, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ xâm lược, làm nên những thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về
một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đất
nước hòa bình, thống nhất, trên cương vị là Bí thư Quân ủy Trung ương (đến
năm 1978), Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng
đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội lãnh đạo toàn dân, toàn quân
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.
Năm
1980, Đại tướng thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy
viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách khoa học - kỹ
thuật.
Năm
1991, Đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80. Từ năm 1992 đến khi từ trần, Đại tướng là
Chủ tịch danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Chủ nhiệm Đề tài: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, kiêm cố vấn chương trình khoa học
cấp Nhà nước về “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”; Chủ tịch danh dự Hội khoa
học lịch sử Việt Nam; Chủ tịch danh dự Hội khuyến học Việt Nam; Chủ tịch danh dự Quỹ hỗ trợ sáng tạo khoa học kỹ thuật
Việt Nam; Chủ tịch danh dự Hội Cựu giáo chức Việt Nam.
Trọn
cuộc đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp luôn sáng ngời phẩm chất cao quý của người chiến sĩ cách mạng kiên
trung, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, suốt đời tận tụy
hy sinh, một lòng, một dạ phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cộng sản. Dù trong
lúc cách mạng gặp thuận lợi hay khó khăn, Đại tướng vẫn tin tưởng, thủy chung,
son sắt với Đảng, với Nhân dân, đúng như lúc sinh thời Đại tướng đã từng nói
“Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó”.
Đại
tướng là người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước,
trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng chiến chín năm, Đại tướng
được sống và làm việc bên cạnh Bác Hồ, được Bác Hồ giáo dục, rèn luyện và trao
cho nhiều trọng trách trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao... Đại
tướng đã nỗ lực phấn đấu học tập ý chí, tư tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống
của vị lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh, luôn luôn tu dưỡng rèn luyện, nói và làm
theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Trong
quá trình hoạt động cách mạng, Đại tướng rất coi trọng tổng kết thực tiễn
và chính từ đó Đại tướng càng hiểu sâu sắc hơn tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh. Đại tướng là một trong những người sớm nghiên cứu và viết về Hồ Chí
Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách cơ bản, toàn diện, hệ thống và đã có nhiều
đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc
biệt đã góp phần xây dựng nền móng cho bộ môn khoa học Hồ Chí Minh học. Với ba
chuyên luận: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, “Tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh”, “Thế giới đổi thay, tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống
mãi”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cuộc sống, trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong thời kỳ mới.
Nghiên
cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực, nhất là
lĩnh vực quân sự là mạch xuyên suốt chủ đạo trong quá trình hoạt động cách mạng
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng vẫn luôn nhắc nhở chúng ta điều có ý
nghĩa quyết định trong việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là phải làm theo
và làm đúng tư tưởng của Người.
Kỷ
niệm 110 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (28/8/1911-28/8/2021), toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân bày tỏ sự trân trọng, ngưỡng mộ với những công lao to
lớn và cống hiến đặc biệt xuất sắc của Đại tướng đối với sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và dân tộc Việt Nam; nguyện tiếp tục đi
theo con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và các thế hệ cách mạng đi trước đã trọn
đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân;
tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Lưu Văn Tuấn,
Trưởng phòng Thông tin, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy