Khơi dậy và phát huy các nguồn tài nguyên văn hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững ở nước ta hiện nay
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã bồi đắp, kết tinh
nên những trầm tích văn hóa - nguồn tài nguyên quý giá, nguồn lực nội sinh quan
trọng của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh mới, để ứng phó linh hoạt, hiệu quả
với những thách thức phức tạp, khó dự báo hiện nay, việc khơi dậy và phát huy
hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa gắn kết với phát triển kinh tế - xã hội là
một yêu cầu cấp thiết được đặt ra, qua đó góp phần gia tăng sức mạnh mềm văn
hóa, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ
tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ dâng
hương Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2021 _Nguồn: toquoc.vn
Tiềm năng và cơ hội khơi dậy, phát huy các nguồn tài
nguyên văn hóa Việt Nam
Bề
dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa
Việt
Nam là quốc gia có bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa. Trong lịch sử phát
triển, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có ý thức tạo lập và phát huy
sức mạnh văn hóa của đất nước. Việt Nam đã luôn đối mặt và chiến thắng những
đội quân xâm lược có tiềm lực quân sự, kinh tế lớn hơn gấp nhiều lần. Có thể
thấy, những nét đẹp của văn hóa Việt Nam là nguồn cội quan trọng tạo nên sức
mạnh văn hóa Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã đề cập tới nhiều nguồn (tài
nguyên) có tiềm năng phát triển văn hóa Việt Nam nhằm phục vụ cho phát triển
kinh tế, xã hội, trong đó có bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa.
Văn
hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Một mặt, tính
đa dạng là một đặc điểm lâu đời của nền văn hóa Việt Nam gắn với nông nghiệp
trồng lúa nước, tính cộng đồng cao, trải qua quá trình lịch sử lâu dài đối phó
với thiên nhiên cũng như kiên cường chống các thế lực ngoại xâm. Mặt
khác, nằm trong khu vực ảnh hưởng của nhiều nền văn minh lớn trên thế
giới là Ấn Độ, Trung Quốc và phương Tây, Việt Nam không chỉ tiếp thu, mà còn
biến đổi những tinh hoa văn hóa thế giới cho phù hợp với điều kiện của mình. Do
vậy, nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dạng từ nguồn cội ban đầu. Giao
lưu với văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Hoa diễn ra trong thời gian rất dài thông
qua nhiều cách thức đã tạo nên dấu ấn khá đậm nét trong văn hóa Việt Nam. Tuy
nhiên, người Việt vẫn giữ được bản sắc văn hóa của riêng mình. Điều này được thể
hiện qua nhiều bình diện khác nhau trong đời sống người Việt, từ tôn giáo, tâm
linh đến thế giới quan, chuẩn mực đạo đức xã hội, kiến trúc, ngôn ngữ,
đời sống sinh hoạt hằng ngày... Có thể nói, chúng ta có một nền văn hóa đa dạng
và phong phú, đồng thời có một nền văn hóa chủ lưu làm cơ sở cho các cộng đồng
văn hóa thiểu số, đó là văn hóa Việt. Điều này thúc đẩy sự phát triển yếu tố
nội sinh của dân tộc, tạo nên sức mạnh đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc anh
em trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sức hấp dẫn, sự lôi cuốn,
khả năng thuyết phục của văn hóa Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội
trong quá khứ cũng như hiện tại.
Tính
đa dạng văn hóa thể hiện trong chính hoạt động của nền kinh tế, từ kinh tế
truyền thống tới kinh tế nông nghiệp, kinh tế ngư nghiệp, kinh tế ẩm thực, kinh
tế du lịch và các ngành kinh tế khác được công nghiệp văn hóa khai thác. Từ
đây, nền tảng của sự đa dạng văn hóa từ xưa của Việt Nam không chỉ cung cấp
những điều kiện để phát triển kinh tế, mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế du
lịch, công nghiệp văn hóa, tạo nên một hình ảnh Việt Nam mới phát triển mạnh về
kinh tế, hấp dẫn về cơ hội đầu tư, thu hút sự khám phá đối với thế giới. Sự tồn
tại đặc thù của các cộng đồng giúp giữ gìn nhiều ngành, nghề truyền thống. Khi
kinh tế của các cộng đồng đó phát triển, năng lực sáng tạo độc đáo của các cộng
đồng đó sẽ tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị. Các làng
nghề truyền thống được bảo tồn và phát triển không chỉ bởi sinh kế của người
dân, mà còn giúp giữ gìn những mạch nguồn văn hóa kết tinh và phát triển từ
truyền thống tạo nên những sản phẩm độc đáo, có giá trị kinh tế và hàm lượng
văn hóa cao. Trên cơ sở đó, các ngành du lịch sẽ có chất liệu để khai thác, tạo
nên sự hấp dẫn với du khách đến từ những nền văn hóa khác. Nông thôn Việt Nam,
đặc biệt là các làng nghề, không chỉ là những cộng đồng kinh tế, mà còn là
những cộng đồng văn hóa, xã hội. Mỗi làng nghề truyền thống luôn có các hoạt
động lễ hội, phường hội, những nét văn hóa mang đậm chất dân gian và chứa đựng
bề dày lịch sử riêng biệt. Nhiều làng nghề còn là những làng văn hóa cổ với
kiến trúc độc đáo. Chính vì vậy, sự đa dạng của các làng nghề truyền thống sẽ
tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước.
Những người nước ngoài tới các làng nghề không chỉ đơn thuần tham quan các di
tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, mà còn để tận mắt ngắm nhìn những
sản phẩm độc đáo và cách thức tạo ra chúng từ những bàn tay khéo léo, khối óc
sáng tạo của các nghệ nhân, qua đó có thể tìm hiểu và khám phá những giá trị
văn hóa, lịch sử. Nếu chúng ta có chiến lược đầu tư, khai thác sự đa dạng,
phong phú của các nghề thủ công, các làng nghề truyền thống trong phát triển du
lịch văn hóa, thì cùng với các sản vật phong phú, các sản phẩm thủ công độc
đáo, các lễ hội, trò chơi dân gian và văn hóa ẩm thực dân gian, du lịch làng
nghề sẽ là một sản phẩm du lịch thu hút được sự quan tâm của rất nhiều du
khách, đặc biệt là du khách nước ngoài.
Du khách đến với làng gốm
Chu Đậu, tỉnh Hải Dương (ảnh: Nguyễn Thiện Tín) _Nguồn: vapa.org.vn
Sự
tồn tại đa dạng của các cộng đồng văn hóa cung cấp nét độc đáo cho sự gắn kết
giữa các cộng đồng dân tộc Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam
với bạn bè thế giới. Từ xưa tới nay, đối thoại giữa các nền văn hóa là điều
kiện tiên quyết để từng cộng đồng, từng dân tộc bộc lộ và phát huy hết những
năng lực sáng tạo độc đáo của mình trong quá trình tạo ra các giá trị mới về
vật chất cũng như tinh thần. Trong bối cảnh hiện nay, đối thoại giữa các nền
văn hóa đang là yêu cầu quan trọng bậc nhất để hướng tới sự phát triển bền vững
của thế giới. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng tạo ra nguy cơ đánh mất bản
sắc giữa các nền văn hóa trên thế giới, nguy cơ đồng dạng hóa các giá trị văn
hóa theo một khuôn mẫu. Sự đa dạng của các nền văn hóa, các cộng đồng văn hóa ở
Việt Nam tạo ra môi trường để tăng cường tình đoàn kết, sự gắn bó giữa các cộng
đồng. Mỗi tộc người có nền văn hóa, nét văn hóa riêng biệt, nhưng do yêu cầu
chống thiên tai, bảo vệ cuộc sống và nhu cầu chống giặc ngoại xâm, và do cả sự
giao lưu, hội nhập văn hóa, dân tộc Việt Nam vẫn hình thành nên một mẫu số
chung, một hệ giá trị chung bền vững. Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, tinh thần đoàn kết, lối sống khoan hòa, lối ứng xử linh hoạt, cởi mở, dễ
tiếp thu những giá trị mới, tinh thần hòa hiếu...
Sự đa
dạng trong thống nhất, thống nhất mà vẫn đa dạng của nền văn hóa Việt Nam là
một trong những yếu tố quan trọng tạo cơ hội để Việt Nam phát triển văn hóa
theo hướng bền vững. Về mặt an ninh quốc phòng, đa dạng văn hóa tạo nên nguồn
sức mạnh mềm hiệu quả để thúc đẩy và bảo đảm an ninh chính trị cũng như bảo vệ
sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Các cộng đồng tộc người sống rải rác trên
khắp lãnh thổ Việt Nam, vùng biên giới đa số là các cộng đồng dân tộc thiểu số.
Mỗi cộng đồng khi bảo tồn được những giá trị văn hóa của cộng đồng mình sẽ tạo
nên sự gắn kết bền chặt, phát triển bền vững. Việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp
giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số ở cùng khu vực với nhau sẽ tạo nên phương
thức hiệu quả để bảo đảm an ninh chính trị, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
Thế
giới đang bước vào quá trình phát triển và hội nhập mạnh mẽ. Quá trình hội nhập
tạo nên cơ hội cho việc giao lưu, quảng bá của các nền văn hóa trên thế giới.
Điều này cũng khiến cho mỗi khu vực trên thế giới đều đang trở nên đa dạng về
mặt văn hóa, đồng thời cũng tạo ra không ít xung đột do những va chạm và khác
biệt giữa các nền văn hóa khác nhau. Các quốc gia đã nhận ra chìa khóa của sự
phát triển hòa bình và ổn định trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng là sự
thấu hiểu, tôn trọng và khoan dung với mọi khác biệt và đa dạng của các nền văn
hóa khác. Do vậy, bảo tồn và phát huy tính đa dạng văn hóa vốn có của Việt Nam
hiện nay sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế.
Di
sản phong phú, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, giàu tiềm năng
Với
bề dày hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam lưu giữ hệ thống di sản văn hóa và
tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Đây chính là tiềm năng sẵn có để
Việt Nam đa dạng hóa các sản phẩm, loại hình du lịch văn hóa, qua đó phát huy
sức hấp dẫn, thu hút về sức mạnh mềm văn hóa. Tính đến hết năm 2018, Việt Nam
có khoảng 3.500 di tích được xếp hạng quốc gia, 107 di tích quốc gia đặc biệt.
Các di sản thiên nhiên thế giới (Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng), di sản thiên nhiên và văn hóa (như Quần thể danh thắng Tràng An, Công
viên địa chất toàn cầu là Cao nguyên đá Đồng Văn), di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể (Cố đô Huế, Đô thị cổ Hội An, Khu đền tháp Mỹ Sơn, Khu di tích
trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ, Nhã nhạc - âm nhạc cung đình
Việt Nam, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Quan họ Bắc Ninh, Ca trù,
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Hát xoan ở Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ Hùng
Vương, Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ, Dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh, Nghệ thuật ca
bài chòi Trung Bộ Việt Nam, Nghi lễ và trò chơi kéo co, Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ của người Việt, nghệ thuật Xòe Thái…); di sản tư liệu của thế giới (Mộc bản
triều Nguyễn, Bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê và Mạc, Mộc bản Kinh Phật
thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm, Châu bản triều Nguyễn, Thơ văn kiến trúc
cung đình Huế) chính là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, giàu tiềm năng của
nước ta.
Bên
cạnh đó, với bề dày và sự đa dạng về văn hóa của 54 dân tộc, Việt Nam có hàng
chục nghìn di sản văn hóa vật thể, hơn 3 triệu di vật, cổ vật có giá trị (đang
được bảo quản, trưng bày tại hệ thống 166 bảo tàng)(1) và một
hệ thống phong phú các lễ hội (7.966 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội quốc
gia), phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn, làng nghề thủ công, văn hóa
ẩm thực, trang phục,... phân bố khá đồng đều trên khắp các vùng, miền(2).
Những số liệu nói trên đã minh chứng cho việc tài nguyên văn hóa là một yếu tố
cốt lõi của quá trình chuyển hóa nguồn lực mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn
hóa thông qua xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch và là mấu chốt quan trọng
tạo nên sức hấp dẫn của điểm đến du lịch.
Mỹ Sơn vào hội (Ảnh: Đặng
Kế Cường) _Nguồn: vapa.org.vn
Nền
văn hóa mở và các giá trị văn hóa có sức hấp dẫn, thuyết phục thế giới
Văn
hóa Việt Nam là một nền văn hóa mở.
Trải
qua bao thăng trầm của lịch sử, văn hóa Việt Nam luôn là nền văn hóa không khép
kín, hẹp hòi, kỳ thị, mà luôn cởi mở, khoan dung, sẵn sàng tiếp thu, chọn lọc
cái hay, cái đẹp của văn hóa nhân loại để nâng cao và làm giàu cho văn hóa dân
tộc (tiếp biến tư tưởng, học thuật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, chữ viết từ
văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây,... một cách sáng tạo). Chúng ta cũng luôn
tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để nâng tầm, hoàn thiện văn hóa
Việt Nam, tiếp nhận những giá trị phổ quát của nhân loại mà không cực đoan,
chia rẽ. Đây là những nhân tố tích cực tạo tiền đề để chúng ta dễ dàng hòa nhập
vào dòng chảy chung của văn hóa thế giới và được quốc tế công nhận.
Một
số giá trị văn hóa của người Việt Nam có sức thuyết phục thế giới.
Từ
xưa đến nay, nhân dân các nước trên thế giới biết đến và nể trọng Việt Nam vì
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc với những giá trị cốt lõi, như lòng yêu
nước, anh hùng, quả cảm, quật cường, đồng thời luôn hòa hiếu, yêu chuộng hòa
bình, nhân ái, vị tha. Truyền thống nhân nghĩa “Đem đại nghĩa để thắng hung
tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo” của Nguyễn Trãi trước đây và tinh thần hòa
hiếu, khoan dung của chúng ta là cơ sở, nền tảng để Việt Nam có quan hệ tốt đẹp
với nhiều quốc gia trên thế giới. Thái độ thân thiện, mến khách của người Việt
Nam cũng luôn được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đó là những giá trị tốt đẹp và
bền vững, nếu chúng ta biết quảng bá và phát huy đúng cách, sẽ có khả năng lan
tỏa và sức thuyết phục, chiếm được thiện cảm, sự yêu mến của cộng đồng thế
giới.
Con
người Việt Nam có tài năng sáng tạo và năng lực thích ứng cao.
Tài
năng sáng tạo của các thế hệ tiền nhân đã được thể hiện rất rõ qua những thành
tựu văn hóa vật thể và phi vật thể. Ngày nay, Việt Nam là đất nước có dân số
trẻ, tăng trưởng nhanh, các thế hệ mới có chỉ số thông minh cao, hiếu học, năng
động, có năng lực sáng tạo tốt. Ngày càng xuất hiện nhiều tài năng trong các
lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Con người Việt Nam vốn được tôi luyện qua bao
biến thiên của lịch sử, nên có khả năng thích ứng cao, giao lưu, tiếp biến văn
hóa tốt và đặc biệt rất nhanh nhạy trong kết nối toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt
Nam đang có những cải thiện vượt bậc về kết cấu hạ tầng thông tin - truyền
thông. Mức độ sử dụng internet, số hóa ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng.
Đây là những tiền đề quan trọng về cơ sở khoa học - công nghệ, tạo điều kiện
thuận lợi cho giao lưu và truyền thông văn hóa.
Những
phân tích trên cho thấy, Việt Nam đã, đang sở hữu không ít lợi thế, cơ hội và
điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển văn hóa theo hướng hiện đại, bền
vững, hội nhập quốc tế.
Giải pháp phát huy tài nguyên văn hóa gắn với phát
triển kinh tế - xã hội bền vững
Thực
tế cho thấy, văn hóa hiện diện ở các cấp độ vô cùng đa dạng, các nền văn hóa
khác nhau sẽ có những cách thức khác nhau nhằm đạt được mục tiêu khác nhau
trong chiến lược phát triển văn hóa. Nhưng có một mẫu số chung trên bản đồ văn
hóa thế giới là những quốc gia chuyển hóa tốt nhất nguồn tài nguyên văn hóa
thành sức mạnh mềm văn hóa trong mối liên kết với các trụ cột phát triển luôn
là các quốc gia có những tiền đề vững chắc cho sự phát triển và hội nhập quốc
tế, đồng thời có khả năng ứng phó hiệu quả trước những thách thức an ninh
truyền thống và an ninh phi truyền thống đặt ra trong quá trình phát triển.
Trong
giai đoạn hiện nay, mục tiêu phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc rõ ràng đang gặp phải nhiều thách thức trong tiến trình hiện
thực hóa. Nhưng thách thức cũng chính là động lực để chúng ta nỗ lực tìm ra sự
kết nối logic giữa nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào với quyết tâm chính trị đã
được khẳng định tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tìm ra các giải pháp mang
tính chiến lược nhằm biến văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực khơi
dậy khát vọng cống hiến vì một Việt Nam phồn vinh, bền vững, tự cường, tự chủ.
Với cách tiếp cận thể chế, có thể thấy, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước ta đã thể hiện rõ quan điểm phát huy nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam dựa
trên việc khai thác các thành tố văn hóa nằm trong các trụ cột tài nguyên văn
hóa để quảng bá hình ảnh quốc gia, bản sắc dân tộc, nâng cao năng lực cạnh
tranh, hội nhập quốc tế về văn hóa, từ đó góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp
quốc gia. Với cách tiếp cận này, Việt Nam đang nỗ lực vận dụng, phát huy nguồn
tài nguyên văn hóa phong phú, các thành tố văn hóa giàu sức hấp dẫn, thu hút,
thuyết phục để chuyển hóa thành sức mạnh mềm văn hóa. Hệ thống các quan điểm,
chính sách, phân tích quá trình triển khai chính sách liên quan đến phát huy
sức mạnh mềm văn hóa của Việt Nam đã chỉ ra điểm mạnh của Việt Nam chính là 8
trụ cột tài nguyên sức mạnh mềm văn hóa chính: 1- Di sản văn hóa phi vật thể
(sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,... như nghệ thuật
truyền thống, lễ hội truyền thống, bí quyết nghề thủ công truyền thống, văn hóa
ẩm thực, trang phục truyền thống...); 2- Di sản văn hóa vật thể; 3- Di sản
thiên nhiên thế giới; 4- Lễ hội mới và sự kiện văn hóa; 5- Các sản phẩm và dịch
vụ thuộc ngành công nghiệp văn hóa; 6- Các giá trị và danh nhân văn hóa; 7- Văn
hóa cộng đồng cơ sở; 8- Các cơ sở vật chất và không gian văn hóa. Trong quá
trình triển khai, các chiến lược quốc gia về ngoại giao văn hóa, thông tin,
truyền thông, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đều đưa ra các mục tiêu,
giải pháp có khả năng phối hợp đồng bộ các kênh truyền dẫn chính là ngoại giao
văn hóa, truyền thông và các ngành công nghiệp văn hóa trong việc chuyển hóa
các thành tố sức mạnh mềm văn hóa thành hiệu ứng tạo sức thu hút, lan tỏa, hấp
dẫn của văn hóa Việt Nam ra thế giới và lôi cuốn, thuyết phục thế giới đến với
Việt Nam. Trên thực tiễn, các kênh này đang tạo nên chuỗi liên kết theo hướng
khai thác các thành tố văn hóa nằm trong hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi
vật thể, các giá trị văn hóa, con người có sức hấp dẫn, thu hút và thuyết phục
của Việt Nam cùng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, từ đó hướng tới việc thu hút
thế giới đến với Việt Nam thông qua du lịch văn hóa và đưa sức mạnh mềm văn hóa
Việt Nam ra thế giới thông qua quảng bá hình ảnh quốc gia, tăng cường giao lưu
văn hóa và hình thành mạng lưới các trung tâm văn hóa, các dự án giới thiệu văn
hóa Việt Nam, các danh nhân Việt Nam ra thế giới, đặc biệt là đề án “Tôn vinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng
giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài”. Đây là cách
Việt Nam học tập kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới khi đưa hình ảnh
của lãnh tụ thành biểu tượng thể hiện hoài bão, tâm thế, ý chí của cả một dân
tộc ra thế giới.
Trong
thời gian tới, để khơi dậy, phát huy hiệu quả hơn nữa tài nguyên văn hóa gắn
với phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:
Một
là, tiếp
tục đi sâu nghiên cứu, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về văn hóa theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày
9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Kết luận số
76-KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” và
Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng ngày 24-11-2021, trước hết là ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa,
để văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị; văn hóa vừa là trụ
cột, vừa là nền tảng phát triển xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước.
Hai
là, hoàn
thiện thể chế, chính sách, khung khổ pháp lý tạo cơ chế chuyển hóa hiệu quả
nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa, góp phần gia tăng sức mạnh
tổng hợp quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. Giai đoạn 2021 - 2025
và đến năm 2030 tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng các dự án luật, nghị định
thuộc lĩnh vực văn hóa(3).
Ba
là, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội và
hội nhập quốc tế.
Tập
trung xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bảo đảm mọi thành viên của cộng
đồng được phát triển các năng lực sáng tạo. Tập trung ưu tiên xây dựng
văn hóa trong chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất đạo đức tốt, ý thức thượng tôn pháp luật, xây dựng văn hóa trong từng cộng
đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, văn hóa doanh nghiệp và mỗi gia đình
là những đơn vị văn hóa thực chất. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã
hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở
thành nhân tố bồi đắp giá trị chân - thiện - mỹ.
Khi
nhiệm vụ xây dựng văn hóa trở thành thường trực, nền tảng văn hóa được hình
thành tự nhiên, tự nguyện trong mỗi cộng đồng, trong mỗi người thì khả năng
chọn lọc cái tinh tế, tốt đẹp, định vị bản thân, giá trị, bản sắc dân tộc gắn
với khát vọng hội nhập, cống hiến sẽ trở thành “lá chắn mềm” loại trừ cái phản
cảm, phi văn hóa.
Xây
dựng thể chế theo hướng gắn văn hóa với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội
chính là giải pháp căn cốt để hình thành hệ sinh thái có khả năng thúc đẩy sự
đa dạng của các biểu đạt văn hóa, tạo sự chủ động hợp tác và quảng bá các giá
trị văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam ra thế giới nhằm gia
tăng sức mạnh mềm văn hóa, định vị “thương hiệu quốc gia”, nâng cao vị thế đất
nước trên trường quốc tế, tạo dựng môi trường hòa bình, hữu nghị giữa các dân
tộc và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.
Bốn
là, hoàn
thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa, ưu tiên phát triển một số ngành
công nghiệp văn hóa, từng bước đưa công nghiệp văn hóa thành ngành kinh tế mũi
nhọn, góp phần nâng cao đời sống xã hội.
Chương trình biểu diễn thực
cảnh "Tinh hoa Bắc Bộ" tại chùa Thầy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai,
thành phố Hà Nội _Nguồn: baovanhoa.vn
Triển
khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 với 3 trụ
cột tăng cường đầu tư, đổi mới sáng tạo và đột phá thể chế nhằm phát huy vai
trò của trụ cột văn hóa gắn liền với trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội theo
hướng phát triển bền vững. Chú trọng đổi mới sáng tạo nhằm khuyến khích, phát
huy tối đa các nguồn tài nguyên văn hóa, năng lực sáng tạo của toàn dân, đặc
biệt là sức sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để ngày càng có nhiều tác phẩm văn
hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị cao nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Tôn trọng quy luật riêng của nghệ
thuật, có chính sách phù hợp nhằm khích lệ, động viên, hỗ trợ các văn nghệ sĩ
trong sáng tác, sáng tạo nghệ thuật để tạo ra những tác phẩm được sống mãi với
thời gian.
Phát
triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm(4) để
phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, dựa trên sự sáng tạo, khoa học -
công nghệ và bản quyền trí tuệ, phấn đấu đạt mục tiêu doanh thu của các ngành
công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP vào năm 2030; gắn phát triển văn hóa với
phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo
vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.
Năm
là, phát
huy hiệu quả nguồn lực đầu tư phát triển trong lĩnh vực văn hóa, bao gồm nguồn
ngân sách nhà nước chi cho văn hóa, đẩy mạnh hợp tác công - tư, xây dựng cơ chế
ưu đãi, miễn, giảm thuế, phí phù hợp với thực tiễn và có khả năng thu hút đầu
tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, phát triển các ngành
công nghiệp văn hóa.
Sáu
là, chủ động hội nhập, tăng cường
các hoạt động hợp tác, giao lưu quốc tế, xúc tiến thương mại trong lĩnh vực văn
hóa.
Nâng
cao hiệu quả công tác truyền thông văn hóa để quảng bá hình ảnh đất nước và con
người Việt Nam. Đa dạng hóa các sản phẩm văn hóa, các hình thức truyền thông
văn hóa ra thế giới bằng tiếng nước ngoài để phù hợp với nhiều thị trường khách
quốc tế khác nhau. Đổi mới và nâng cao chất lượng việc tổ chức các “Ngày Văn
hóa”, “Tuần Văn hóa”, các lễ hội văn hóa - du lịch Việt Nam, các sự kiện,
chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật ở nước ngoài. Tăng cường sự hiện
diện của Việt Nam tại các sự kiện văn hóa, nghệ thuật lớn của thế giới, như
EXPO, các triển lãm mỹ thuật thế giới, liên hoan phim quốc tế, như liên hoan
phim Cannes, Berlin, Busan, Oscar hay Tokyo... Phát triển hệ thống các trung
tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài tại các địa bàn trọng điểm trên thế giới; qua
đó, góp phần gia tăng “sức mạnh mềm” của đất nước trong quá trình hội nhập quốc
tế.
Văn
hóa hiện diện ở các cấp độ vô cùng đa dạng, các nền văn hóa khác nhau tương tác
theo những cách thức khác nhau, nếu chuyển hóa hiệu quả tài nguyên văn hóa
thông qua giải pháp phù hợp sẽ tạo được sự hấp dẫn, thu hút, lôi cuốn, thuyết
phục về văn hóa của một quốc gia đối với quốc gia khác trong quan hệ quốc tế.
Đối với Việt Nam - một quốc gia có lợi thế về nguồn tài nguyên văn hóa sẵn có,
việc sử dụng và phát huy hiệu quả nguồn lực tài nguyên văn hóa thông qua các
giải pháp chính sách là một yêu cầu cần thiết trong việc khơi dậy, phát huy
nguồn tài nguyên văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù, ở cả thời
điểm hiện tại lẫn tương lai, việc khơi dậy, phát huy tài nguyên văn hóa Việt
Nam gắn với phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều thách thức, nhưng nếu sớm
thực hiện các giải pháp chính sách gắn văn hóa với kinh tế - xã hội theo hướng
vận dụng và chuyển hóa tốt nhất nguồn lực văn hóa, Việt Nam sẽ khơi dậy, phát
huy hiệu quả sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm văn hóa trong mối liên kết sức
mạnh tổng hợp quốc gia; qua đó, ứng phó hiệu quả với những thách thức phức tạp,
khó dự báo hiện nay và góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước./.
Nguồn:tapchicongsan.org.vn