Hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu
Theo Bộ
trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, năm qua, đại dịch
Covid-19, đặc biệt làn sóng dịch lần thứ tư, đã tác động sâu sắc đến lĩnh vực
lao động-việc làm và an sinh xã hội của người dân. Với phương châm “Thích ứng
an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh và từng bước mở cửa nền kinh
tế”, song hành với thực hiện những chính sách hỗ trợ người dân, người lao động
cùng doanh nghiệp trong đại dịch, các giải pháp để hỗ trợ phục hồi và phát
triển thị trường lao động là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để phục
hồi và phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian tới.
Nỗ lực bảo đảm an sinh xã hội
trong giai đoạn “đặc biệt”
của đất nước
Phóng viên: Thưa Bộ trưởng Đào Ngọc
Dung, nhìn lại năm 2021, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tham mưu Quốc
hội, Chính phủ ban hành kịp thời các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, đặc
biệt là Nghị quyết số 68/NQ-CP và Nghị quyết số 116 /NQ-CP hỗ trợ người dân,
người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng đại dịch Covid-19. Vậy,
Bộ trưởng đánh giá như thế nào về hiệu quả các chính sách an sinh đã ban hành
năm vừa qua?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung:
Đại
dịch Covid-19, đặc biệt đợt dịch lần thứ tư bùng phát, đã ảnh hưởng lớn đến vấn
đề lao động, việc làm, an sinh xã hội của người dân. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê (GSO), ước tính số người bị mất việc làm chiếm khoảng 5% và 32% số
người phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng sản xuất, kinh doanh; gần 50% người bị cắt
giảm giờ làm hoặc buộc phải nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiên; khoảng 80% người
bị giảm thu nhập.
Trong bối cảnh đó, thực hiện chức năng
nhiệm vụ được giao, một mặt, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã sớm đề xuất
Đảng, Nhà nước triển khai bài bản, căn cơ các chính sách xã hội, tập trung chăm
lo ngày một tốt hơn cho người có công với cách mạng, đối tượng trợ giúp xã hội,
đối tượng yếu thế… nhằm bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt trong giai đoạn đất nước
chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19.
Cụ thể, Bộ đã trình Chính phủ ban hành 2
Nghị định quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với
cách mạng năm 2020, bảo đảm chăm lo tốt hơn cho người có công cả về vật chất và
tinh thần; Mở rộng diện bao phủ và nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội, thông qua
việc tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021, tăng mức chuẩn trợ
giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội từ ngày 1/7/2021 lên 360
nghìn đồng/tháng, mở rộng một số nhóm đối tượng…, từng bước đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân cả nước về chính sách trợ giúp xã hội.
Cùng với đó, Bộ Lao động-Thương binh và
Xã hội cũng kịp thời trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm
2030, với quyết tâm đổi mới, phát huy nội lực vươn lên “thoát nghèo, xây dựng
cuộc sống ấm no” của người dân và cộng đồng, phấn đấu “Vì một Việt Nam không
còn đói nghèo”; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 108/2021/NĐ-CP điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo
hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022, với
mức điều chỉnh tăng thêm 7,4% mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp
hằng tháng cho người hưởng lương hưu thấp, người về hưu trước năm 1995 trong
bối cảnh ngân sách hết sức khó khăn.
Để mở rộng hợp tác quốc tế về an sinh xã
hội, bảo hiểm xã hội, Chính phủ đã ký Hiệp định song phương Việt Nam-Hàn Quốc về bảo hiểm xã hội với Chính phủ Hàn Quốc.
Đây là hiệp định đầu tiên cấp Chính phủ về bảo hiểm xã hội mà Việt Nam ký kết
với một đối tác nước ngoài, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao
động của hai quốc gia.
Mặt khác, Bộ đã chủ động, quyết liệt và
linh hoạt tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, trong đó có những chính sách “chưa có tiền lệ”. Cụ thể như: Nghị quyết số 68/NQ-CP, Quyết định số 23/QĐ-TTg và Nghị quyết số 116/NQ-CP, Quyết định số 28/QĐ-TTg thực hiện nhiều
giải pháp, ban hành nhiều gói hỗ trợ kịp thời hỗ trợ người dân, người lao động,
người sử dụng lao động vượt qua khó khăn, góp phần giảm thiểu những tác động
tiêu cực của đại dịch.
Kết quả triển khai rất khả quan. Chỉ
trong thời gian vài tháng, với điều kiện rất khó khăn trong bối cảnh thực hiện
giãn cách xã hội, việc thực hiện Nghị quyết 68 và Nghị quyết 116 đã đem lại hiệu
quả rất thiết thực, dư luận xã hội, người lao động, người sử dụng lao động đồng
tình cao.
Ảnh: Trần Hải.
Đến 31/12/2021, Trung ương và các địa
phương đã dành tổng kinh phí 71.482 tỷ đồng thực hiện các
chính sách hỗ trợ gần 742 nghìn lượt người sử dụng lao động (kinh
phí 13.033 tỷ đồng); hơn 42,8 triệu lượt người lao động và các
đối tượng khác với (kinh phí 58.449 tỷ đồng).
Trong đó: Triển khai Nghị quyết 68, toàn quốc có 378.300
lượt người sử dụng lao động, trên 30 triệu lượt người lao động và các đối tượng
khác được hỗ trợ với tổng kinh phí là 33.564 tỷ đồng; Triển khai Nghị quyết số 116, có 363.600 lượt người
sử dụng lao động và 12,6 triệu lượt người lao động được hỗ trợ với tổng kinh
37.918 tỷ đồng từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.
Tôi
cho rằng, nguồn lực tuy chưa thật lớn, song đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu cấp
bách của nhiệm vụ an sinh xã hội, hỗ trợ nền kinh tế, đặc biệt là các trung
tâm, các địa bàn tăng trưởng trọng điểm, vượt qua giai đoạn khó khăn.
Đồng
thời, toàn ngành lao động-thương binh và xã hội đã dồn lực tập trung tham mưu,
cảnh báo và đề xuất thực hiện các biện pháp kịp thời nhằm khắc phục tình trạng
đứt gãy chuỗi cung ứng lao động cục bộ, ổn định thị trường lao động, tích cực,
chủ động nghiên cứu, đề xuất với Trung ương, Quốc hội và Chính phủ các biện
pháp phục hồi các chính sách an sinh xã hội do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Sau
khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số
128/NQ-CP quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt,
kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19", rất mừng là nguy cơ đứt gãy lao động đã
không xảy ra.
Người
lao động trong những tháng cuối năm 2021 đã trở lại làm việc tại TP Hồ Chí Minh
và khu vực kinh tế trọng điểm phía nam đạt 85-90%, đáp ứng nhu cầu sản xuất của
doanh nghiệp cuối năm. Nếu dịch bệnh được kiểm soát tốt, thị trường lao động sẽ
phục hồi mạnh mẽ hơn trong quý I và đầu quý II/2022.
Hỗ trợ phục hồi và phát triển
thị trường lao động
là một trong những nhiệm vụ
ưu tiên hàng đầu
Phóng viên: Xin Bộ trưởng cho
biết, đâu là giải pháp để bảo đảm an sinh xã hội trong bối cảnh thích ứng với
trạng thái bình thường mới?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung:
Dự
báo, dịch bệnh Covid-19 có thể còn tiếp diễn với những diễn biến khó lường.
Việt Nam thuộc 6 quốc gia có tỷ lệ tiêm bao phủ vaccine cao trên thế giới. Và
chúng ta đã đang chuyển sang trạng thái bình thường mới với phương châm:
“Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh và từng bước mở cửa
nền kinh tế”.
Để bảo đảm an sinh xã hội, phục hồi sản
xuất, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong thời gian tới, Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội đã đề xuất Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
ban, ngành, địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau.
Thứ nhất, tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ người lao
động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và người dân
gặp thiên tai, rủi ro.
Thứ hai, hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao
động. Duy trì lực lượng lao động, nhất là trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất, các trung tâm tăng trưởng, tăng cường các biện pháp giữ chân người lao
động đang làm việc, không để đứt gãy chuỗi cung ứng nguồn lao động; hỗ trợ
người lao động được vay vốn giải quyết việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm.
Đây là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để phục hồi nền kinh tế trong
giai đoạn tới.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế về phát triển thị
trường lao động-việc làm. Triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển
thị trường lao động giai đoạn 2021-2030; Phát triển hệ thống thông tin thị
trường lao động, tăng khả năng kết nối cung-cầu trên thị trường, hình thành hệ
thống thu thập, chia sẻ thông tin về việc tìm người và người tìm việc; Phát
triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội
tự nguyện, tham mưu sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội theo tinh thần Nghị quyết số
28-NQ/TW khoá XII.
Thứ tư, phát triển giáo dục nghề nghiệp, tăng cường
đào tạo thường xuyên, đào tạo lại lao động và tăng cường chuẩn hóa chất lượng
lao động trình độ kỹ năng nghề giúp người lao động có cơ sở và cơ hội thuận lợi
học tập nâng cao trình độ kỹ năng đáp ứng nhu cầu phục hồi và phát triển kinh
tế bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực có chất lượng cao, có kỹ năng cho thị
trường lao động và yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, góp phần
nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền
kinh tế.
Thứ năm, tăng cường hiệu quả các chính sách an sinh xã
hội hiện hành, nỗ lực hướng tới hệ thống an sinh đáp ứng với các cú sốc diện
rộng: Xây dựng kịch bản, phương án bảo đảm an sinh xã hội đối với người dân, hộ
nghèo, người yếu thế trên địa bàn phù hợp với tình hình thực hiện phòng, chống
dịch Covid-19; Phát triển hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các
chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân.
Phát triển nguồn nhân lực
có chất lượng, có kỹ năng
-trụ cột quan trọng nhất
trong bối cảnh đại dịch
Phóng
viên: Thưa Bộ trưởng, đâu là giải pháp
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển hướng đào tạo để thị trường lao động
nội địa thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung:
Từ kinh nghiệm quốc tế và thực
tiễn nước ta, để phục hồi kinh tế và phát triển bền vững trong bối
cảnh dịch bệnh, cùng với việc triển khai các chương trình đầu tư quy mô lớn
có tác động lan tỏa, tạo động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế, thì trụ cột
tiên quyết, quan trọng nhất vẫn là phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng, có kỹ năng và hiệu quả cao.
Kỹ
năng lao động sẽ giúp các doanh nghiệp, các ngành, nghề có công nghệ
mới, năng suất lao động cao phục hồi và phát triển mạnh mẽ, đi vào
tăng trưởng theo chiều sâu, bền vững.
Để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển hướng thị trường lao động nội địa
thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần thực hiện đồng bộ tổng
thể các giải pháp, trong đó ưu tiên triển khai các giải pháp trọng tâm.
Đó
là:
- Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát triển nhân lực lao động qua đào tạo
nghề nghiệp, tạo động lực để cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp, người
lao động tích cực tham gia vào hoạt động đào tạo nghề;
- Nâng cao
chất lượng hoạt động dự báo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về nhu cầu
nguồn nhân lực, nhu cầu việc làm và nhu cầu đào tạo trong lĩnh vực ngành,
nghề chịu tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư;
- Ưu tiên
nguồn lực đầu tư nâng cao năng lực cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và
hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động;
- Đẩy mạnh mô
hình liên kết đào tạo trong đó doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp công
nghệ, doanh nghiệp trong lĩnh vực chịu tác động của cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, tham gia xây dựng tiêu chuẩn đào tạo, chương trình đào tạo và
tham gia đào tạo, ưu tiên đào tạo tại doanh nghiệp để người học tiếp cận
nhanh với công nghệ mới và đào tạo ngành nghề mới và các kỹ năng nghề mới;
- Đào tạo lại
nâng cao kiến thức, kỹ năng gắn với chuyển đổi việc làm cho người lao
động.
Hiện
nay, 65% lực lượng lao động nước ta đã qua đào tạo, nhưng chỉ có 24,5% có chứng
chỉ bằng cấp. Con số này so với mặt bằng chung của các nước ASEAN còn thấp. Tác
động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm thay đổi bản chất của công
việc. Do vậy, hệ thống đào tạo nghề cần tiếp tục theo hướng mở liên thông, linh
hoạt và bao trùm gắn với học tập và nâng cao tay nghề suốt đời, tập trung nguồn
lực, ưu tiên cho phát triển nguồn nhân lực và đi tắt đón đầu các xu hướng mới,
hội nhập trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực. Tập trung đào
tạo và đào tạo lại, nâng cao tay nghề đào tạo lao động thích ứng công nghệ mới,
thông qua các cơ sở đào tạo nghề với sự tham gia của doanh nghiệp là chính.
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
Nguồn:nhandan.vn