Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
“Đoàn
kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là cội nguồn sức
mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt
Nam”(1). Hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta đã khẳng định, khi đất nước đứng trước tình thế, hoàn cảnh gian
lao, thử thách mang tính bước ngoặt, “nếu biết khơi dậy tinh thần yêu
nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong ba
bão táp, để cập bến bờ vinh quang”(2). Phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc là chủ trương xuyên suốt, thống nhất của Đảng
ta, được thể hiện trực tiếp trong nội dung nhiều văn kiện, nghị quyết,
quyết định, chỉ thị qua các thời kỳ cách mạng. Đến nay, khối đại đoàn
kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của đất nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội. Trong giai đoạn mới, Đảng ta xác định:
“Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc”(3). Nhìn chung, việc phát huy sức mạnh của hệ
thống chính trị trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được biểu
hiện trực tiếp ở việc nâng cao vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội, cụ thể:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Theo đó, yếu tố “quyết định thành công
của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng
lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(4). Thời gian qua, tổ
chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị được đổi mới, tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; chú trọng hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ
thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý nhằm hoàn thiện thể
chế, bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa quy định của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về tổ chức bộ máy; phương thức lãnh đạo, năng lực dự báo,
tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương được đổi mới.
Mặt
khác, Đảng tiến hành kiểm tra đối với các tổ chức đảng, cơ quan nhà
nước và các tổ chức chủ yếu khác trong hệ thống chính trị; phát hiện, xử
lý kịp thời tình trạng tham ô, tham nhũng, thoái hóa, biến chất, vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; bảo đảm làm trong sạch Đảng và hệ
thống chính trị, giữ vững niềm tin trong nhân dân. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả, hình thành nền nếp trong triển khai các quy định về tổ chức và
hoạt động của Đảng, như Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban
Chấp hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng”.
Hai là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có vai trò quan trọng trong việc phát huy tốt sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân
dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”(5); đồng thời,
nhấn mạnh mọi chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng,
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và “lấy hạnh phúc,
ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(6). Mặt khác, Nhà nước phải không ngừng “cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(7) và luôn vì mục tiêu “phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn”(8).
Thời
gian qua, bộ máy nhà nước được xây dựng theo hướng ngày càng tinh gọn,
trong sạch, vững mạnh. Mặt khác, cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2021 - 2030 tập trung vào sáu nội dung cơ bản, đó là: cải cách thể chế;
cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước; cải cách chế độ công vụ; cải cách tài chính công và xây dựng, phát
triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.
Đến
nay, nhiệm vụ xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số
được chú trọng, từng bước vận hành hiệu quả các trung tâm hành chính
công nhằm đáp ứng yêu cầu của công dân và xã hội; đồng thời, tiếp tục
triển khai hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và
doanh nghiệp giải quyết thủ tục hành chính,... từ đó, không ngừng củng
cố lòng tin trong nhân dân. Bên cạnh đó, tập trung nghiên cứu, hoàn
thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm thống nhất, thông suốt trong lãnh đạo,
quản lý, điều hành cũng như phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong
quản lý kinh tế - xã hội từ Trung ương đến địa phương; phát huy tính chủ
động, tích cực, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương,
bảo đảm phục vụ tốt nhất người dân, doanh nghiệp.
Ba là, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội không ngừng đổi
mới, sáng tạo, đa dạng hóa phương thức vận động quần chúng, coi trọng
các phong trào thực tiễn, hạn chế việc ra nhiều nghị quyết, chỉ thị, chỉ
đạo điều hành chung chung; phương thức vận động các giai tầng trong xã
hội, đặc biệt là đối với đồng bào theo tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu
số và người Việt Nam ở nước ngoài được đổi mới; chủ động nghiên cứu, xây
dựng, đề xuất chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài để thu
hút, huy động mọi nguồn lực cho phát triển.
Hiện
nay, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của người dân được đẩy
mạnh; đồng thời, chú trọng kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước, giám
sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; tăng cường
sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra,
tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả. Mặt
khác, cơ chế hoạt động, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội
ngũ cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từng bước được hoàn thiện; có
sự hiệp thương, phối hợp thống nhất hành động giữa Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên để phát động, triển khai sâu rộng và nâng
cao chất lượng các phong trào thi đua, vận động từng tổ chức, tầng lớp
nhân dân chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, hội
viên, tạo nên sự lan tỏa và tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
với chế độ xã hội chủ nghĩa trên tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(9).
Hội
nghị Trung ương 8 khóa XIII đã có sự tổng kết, đánh giá khách quan,
khoa học về những kết quả, thành tích đã đạt được cùng những hạn chế,
khuyết điểm và bài học kinh nghiệm sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số
23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, cụ thể: 1- Công tác xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc đã được Trung ương, Quốc hội, Chính phủ quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện thông qua các nghị quyết, chỉ
thị, luật định, chiến lược hành động và đạt được nhiều kết quả tích cực;
trình độ nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc được
nâng lên; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được phát
huy trên mọi lĩnh vực,...; 2- Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn những khó
khăn, thách thức cần được giải quyết triệt để, như tình trạng phân hóa
giàu nghèo, di cư trái phép; tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp; tỷ lệ cán
bộ là người đồng bào dân tộc thiểu số trong chính quyền còn khá thấp;
hoạt động chống phá, gây chia rẽ của các thế lực thù địch ngày càng tinh
vi, hiện đại, tác động xấu đến mối quan hệ gắn bó giữa các dân tộc;
việc cụ thể hóa trong thực tiễn chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước ở một số lĩnh vực, địa bàn còn hạn chế, hiệu quả chưa
cao,... Từ đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra các yêu cầu nhiệm vụ,
giải pháp trong tình hình mới, như khẩn trương, nghiêm túc xây dựng,
triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, chính sách, đồng
thời giữ vững vai trò tiên phong, hạt nhân lãnh đạo của Đảng; không
ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong xây dựng
và thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, các hội quần chúng theo hướng sáng tạo, thực sự đại
diện cho quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, phục vụ công cuộc
phát triển đất nước(10),...; thống nhất ban hành Nghị quyết
số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục
phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất
nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Về phát huy vai trò nòng cốt, quyết định của quần chúng nhân dân trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Thực
tiễn cho thấy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải
thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân; không ngừng thắt chặt mối quan hệ mật thiết với
nhân dân, xác định mục tiêu hạnh phúc, ấm no của nhân dân là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa trên quan điểm xây dựng “các cơ chế, chính
sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”(11).
Thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu, điều chỉnh một số nội dung,
giải pháp nhằm nâng cao vai trò của quần chúng nhân dân trong xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cụ thể:
Một là, xác
định rõ hơn vị trí, vai trò, bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay (giai cấp sản xuất của cải vật chất cơ bản cho xã hội, nơi tập
hợp trí tuệ, ý chí giải phóng toàn thể dân tộc, đất nước mỗi khi bị áp
bức; giai cấp tiên tiến, đi đầu trong sự nghiệp phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc). Mặt khác, phát huy vai trò của giai cấp nông dân
trong bối cảnh chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế
nông nghiệp, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh hay tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu hiện nay. Đặc biệt, không ngừng nỗ lực xây dựng
chính sách nhằm giải quyết tốt lợi ích của nhân dân trong nhiều vấn đề,
như thu hồi đất sản xuất, đầu tư nguồn lực cho nông nghiệp, giải quyết
lao động; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nông thôn sinh
thái, đô thị hiện đại,...
Hai là, phát
huy vai trò, năng lực của đội ngũ trí thức; tập trung đầu tư giáo dục
để hình thành đội ngũ trí thức đủ tâm, đủ tầm, có bản lĩnh,... góp phần
thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo, tạo chuyển biến tích cực trong tư
duy phát triển và quản trị quốc gia. Cần ban hành các nghị quyết, chỉ
thị, quyết định mới về chế độ, chính sách hỗ trợ, đãi ngộ nhằm thu hút,
phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong bối cảnh mới; đẩy mạnh đầu tư
phát triển khoa học - công nghệ hiện đại, phục vụ đổi mới sáng tạo. Phát
huy vai trò tư vấn, phản biện, tham mưu chủ trương, chính sách của đội
ngũ trí thức.
Ba là, chú
trọng phát triển đội ngũ doanh nhân vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của Việt Nam theo tinh
thần xây dựng “đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có
tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ
và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”(12).
Xây dựng Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ doanh nhân đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tạo hành lang pháp lý và môi trường đầu tư,
kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, an toàn để doanh nhân phát triển(13).
Bốn là, tăng
cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, văn
hóa, bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc, nuôi dưỡng
hoài bão, khát vọng vươn lên; tạo mọi điều kiện để mỗi cá nhân phát
triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị
thẩm mỹ,... Chăm lo xây dựng, bảo vệ quyền lợi và phát huy vai trò của
người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới. Bên cạnh đó, coi trọng, ghi
nhớ công lao, đóng góp của các thế hệ cán bộ lão thành cách mạng, cựu
chiến binh, cán bộ hưu trí, người cao tuổi trong xây dựng và bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò
của cựu chiến binh trong giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng
cho thế hệ trẻ, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tham gia
xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; tích cực giúp nhau làm kinh tế, cải
thiện, nâng cao đời sống, làm giàu hợp pháp, góp phần xây dựng, phát
triển đất nước(14). Mặt khác, tích cực tiếp thu, phát huy trí
tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập,... của người cao tuổi trong
xã hội, cộng đồng và gia đình.
Năm là, bảo
đảm sự bình đẳng, công bằng giữa các dân tộc, kiên định mục tiêu đoàn
kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Quan tâm tới tính đặc thù
của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực
hiện chính sách dân tộc; phòng, chống tư tưởng kỳ thị dân tộc, dân tộc
cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục vận động, đoàn kết, tập
hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng
góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp
phát triển đất nước.
Sáu là,
khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi người dân Việt Nam góp
phần để xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Bên cạnh đó, tiếp tục
nghiên cứu, xây dựng các chính sách nhằm xác lập địa vị pháp lý vững
chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập với xã hội nước sở tại
cho người Việt Nam ở nước ngoài; nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công
dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự trọng, tự
tôn dân tộc; động viên đồng bào hướng về đất nước. Đẩy mạnh vận động
người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là thế hệ trẻ, gắn bó với quê hương,
trở thành cầu nối giữa Việt Nam với các nước(15).
Những
giải pháp, nhiệm vụ để phát huy hơn nữa vai trò khối đại đoàn kết toàn
dân tộc nhằm xây dựng đất nước ngày càng giàu, mạnh, văn minh
Thứ nhất, chủ động, tích cực đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt sâu rộng chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách
nhiệm và hành động của cơ quan, tổ chức, đơn vị (nhất là cơ quan nhà
nước, chính quyền các cấp, người đứng đầu, đảng viên, cán bộ, công
chức,...). Nâng cao hiệu quả và tiếp tục đổi mới, chú trọng đầu tư nhiều
hơn nữa cho công tác dân vận (về con người, nguồn lực, phương tiện,...)
để sẵn sàng “đi trước một bước”, làm cho nhân dân hiểu, nhân dân tin,
nhân dân ủng hộ theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để ý Đảng luôn hợp lòng dân.
Bên
cạnh đó, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo
đảm an sinh, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Đa dạng hóa
các hình thức vận động quần chúng, tổ chức thực hiện sâu rộng, hiệu quả
phong trào thi đua “dân vận khéo”; nhân rộng những mô hình dân vận điển
hình, hiệu quả nhằm lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong toàn xã hội.
Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật ngay tại cơ sở kiến nghị, khiếu nại,
tố cáo của công dân, nhất là những vấn đề bức xúc xã hội nổi cộm, các
vụ việc phức tạp kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, tăng cường đối
thoại, giải quyết thực chất, dứt điểm các vụ việc phức tạp; đồng thời,
cần xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.
Thứ hai, phát
huy tiềm năng, sức mạnh của nhân tố con người, khơi dậy khát vọng, tinh
thần và ý chí phát triển, lòng yêu nước, niềm tự hào, lòng nhân ái,
tinh thần đoàn kết, đồng thuận toàn dân tộc. Chú trọng phát huy giá trị
văn hóa, tính tích cực chính trị, năng lực lao động, cống hiến, đổi mới
sáng tạo của con người Việt Nam; nâng cao ý chí tự lực, tự cường trong
mỗi người dân trước vận mệnh và tương lai của đất nước. Coi trọng việc
phát huy động lực, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, ưu tiên cho các lĩnh vực then chốt; tập trung nâng cao,
tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục - đào tạo, đẩy mạnh
chuyển giao ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng
tạo; xây dựng chính sách mới có tính đột phá hơn để thu hút, sử dụng,
trọng dụng, đãi ngộ người tài....
Thứ ba, thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời
sống, từ kinh tế - xã hội đến chính trị, văn hóa,...; xây dựng hình thức
thích hợp để nhân dân tham gia ý kiến; tổ chức chu đáo, thiết thực việc
lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân, bảo đảm để nhân dân được thẳng thắn
bày tỏ ý kiến đóng góp; khuyến khích trao đổi, tranh luận với tinh thần
xây dựng về những vấn đề có ý kiến khác nhau. Giải quyết tốt nhiệm vụ
kiểm soát trong thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”... Đồng thời, cần khắc phục mọi biểu hiện “vi phạm dân
chủ”, “coi nhẹ dân chủ” hoặc “dân chủ hình thức”; phát huy dân chủ, đề
cao pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong toàn xã hội; tăng cường giám sát,
tổng kết thực hiện nghị quyết, chỉ thị.
Thứ tư, giải
quyết hài hòa, thống nhất về lợi ích cơ bản, chủ yếu giữa các giai cấp,
tầng lớp, giữa các vùng, miền, giữa các dân tộc, tôn giáo nhằm tạo sự
đồng thuận, thống nhất cao trong toàn xã hội. Lợi ích đó phải được thể
hiện qua mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp chính đáng của nhân dân, không ngừng cải thiện, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Theo đó, trong mọi quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải lấy lợi ích của nhân dân
làm cơ sở, cần đem “tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” và phải
có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân.
Thứ năm, đấu
tranh chống các âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị dùng
mọi thủ đoạn thâm độc hòng thực hiện âm mưu “chia để trị”; chúng tìm
mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng những thủ đoạn,
chiêu bài tinh vi, thâm độc hòng phá hoại đất nước ta từ bên trong. Đặc
biệt, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên kích động nhân dân,
thổi phồng, khuếch đại các vấn đề “nhạy cảm” trong xã hội; lợi dụng cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, những yếu kém trong quản lý của các
cấp chính quyền ở một số nơi; thực hiện những chiêu trò đánh lạc hướng
dư luận,... hòng khiến người dân từ nghi ngờ, dẫn đến mất lòng tin vào
Đảng, chế độ, làm suy giảm tinh thần cách mạng của nhân dân. Do đó, cần
đặc biệt chú trọng, nâng cao tinh thần cảnh giác, trách nhiệm công dân,
sự đồng thuận xã hội, ý thức, trách nhiệm cộng đồng, tự lực, tự cường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chống mọi biểu hiện tư tưởng hẹp hòi, cục
bộ, chủ nghĩa cá nhân,... để không ngừng củng cố và phát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc./.