Giá trị văn hóa với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực thực hiện khát vọng phát triển đất nước
Lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã bồi đắp nên bản lĩnh, trí
tuệ, cốt cách của con người Việt Nam, kết tinh các giá trị văn hóa,
tạo thành sức mạnh nội sinh giúp toàn dân ta vượt qua vô vàn
khó khăn, thử thách khắc nghiệt để đi đến những thắng lợi vẻ vang. Hiện
nay, trong bối cảnh mới, phát huy các giá trị văn hóa là yếu tố quan trọng để
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực
thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Lễ dâng hương tưởng niệm các vua Hùng đã có
công dựng nước tại Khu Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hùng, tỉnh Phú
Thọ _Ảnh: TTXVN
1- Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi
của văn hóa, được con người sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử, hướng
con người tới chân, thiện, mỹ. Thông qua hệ giá trị, văn hóa thể hiện vai trò
động lực và điều tiết sự phát triển của xã hội.
Các giá trị văn hóa
được đúc kết, xây dựng và củng cố trong lịch sử phát triển lâu dài, được chiêm
nghiệm, kiểm chứng, đi vào từng hành vi, nếp nghĩ của mỗi cá nhân cũng như
trong tư duy, phương thức hành động của cả hệ thống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh,
chính những trầm tích văn hóa kết tinh ở hệ giá trị đã tạo nên sức mạnh nội
sinh, giúp dân tộc ta giành được những thắng lợi trong quá trình dựng nước và
giữ nước.
Trong thời đại Hồ Chí
Minh, các giá trị văn hóa Việt Nam đã khơi dậy khát vọng đấu tranh giành độc
lập dân tộc và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trong toàn dân, thực sự trở thành động
lực tinh thần to lớn, góp phần chuyển hóa thành sức mạnh vật chất để làm nên
Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và Đại thắng
mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong hơn 35 năm đổi
mới, tình hình trong nước và thế giới có những chuyển biến đa chiều, phức tạp.
Ở trong nước, về kinh tế, đó là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với sự phát triển của kinh tế tri thức; về xã hội, đó là sự
chuyển đổi từng bước từ xã hội truyền thống nông nghiệp sang xã hội công nghiệp
hiện đại. Về bối cảnh quốc tế, là xu thế toàn cầu hóa và cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công
nghệ cùng nhiều thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống... Trong bối
cảnh đó, hệ giá trị văn hóa Việt Nam đã có những biến đổi lớn. Một bộ phận có
xu hướng chuyển từ đề cao các giá trị tinh thần, đạo đức sang đề cao các giá
trị vật chất, kinh tế; xu hướng coi trọng các giá trị tình cảm sang coi trọng
giá trị pháp lý; xu hướng dựa vào tập thể, đề cao cộng đồng chuyển sang khẳng định
cái tôi, giá trị tài năng cá nhân; xu hướng tôn trọng kinh nghiệm, trọng lão
sang đề cao tri thức khoa học, trọng tài năng, thực lực; xu hướng trọng tĩnh
chuyển sang trọng động (trọng năng động, ưa đổi mới, sáng tạo để đáp ứng yêu
cầu phát triển và hội nhập); xu hướng sống theo tôn ti, trật tự chuyển sang đòi
hỏi cuộc sống tự do, bình đẳng...
Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xác định 5 giá trị bền vững, tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lòng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong lối sống.
Sau 15 năm thực hiện
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã xác định xây dựng nền văn hóa Việt
Nam với 4 đặc trưng là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học; chăm lo xây dựng con người với 7 đặc tính cơ bản là yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Như vậy, có thể thấy,
cùng với sự biến đổi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội sau hơn 35 năm
đổi mới, các giá trị văn hóa Việt Nam cũng có những biến đổi lớn, song các giá
trị truyền thống, cốt lõi, như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết... đã được
định hình trong lịch sử và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc tiếp tục được gìn
giữ, phát huy. Văn hóa tiếp tục phát huy vai trò quan trọng, “là nền tảng tinh
thần xã hội”, là “mục tiêu và động lực” trong xây dựng và phát triển đất nước,
góp phần tạo nên sức mạnh dân tộc trong bối cảnh mới.
2- Các giá trị văn hóa là yếu tố
cốt lõi, là cơ sở quan trọng để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã xác định những quan
điểm cơ bản, như văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết chỉ rõ đặc điểm của nền văn hóa mà đất nước ta đang
xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Yếu tố “tiên tiến” ở đây bao hàm cả giá trị yêu nước và
tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong
phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và
cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc được Nghị quyết xác định bao gồm những
giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước.
Nghị
quyết cũng xác định nền văn hóa
Việt Nam là nền văn hóa thống nhất
mà đa dạng. Tính thống nhất và tính đa dạng phản ánh sâu
sắc mối quan hệ giữa bản sắc văn hóa dân tộc (quốc gia) Việt Nam và sắc thái
văn hóa các dân tộc (tộc người), văn hóa địa phương. Bản sắc văn hóa kết tinh ở
hệ giá trị văn hóa dân tộc (quốc gia), thấm sâu vào mọi hoạt động vật chất,
tinh thần, phong tục, tập quán, sinh hoạt cá nhân, mang diện mạo, trí tuệ, tâm
hồn, phong cách của các dân tộc hay cộng đồng quốc gia - dân tộc và được tiếp
nối, phát huy, phát triển trong các thời kỳ lịch sử. Việt Nam là một quốc gia
đa dân tộc. Kết quả Tổng điều tra dân số và
nhà ở ngày 1-4-2019 cho thấy, người Kinh ở nước ta chiếm đa số (chiếm
85,3% dân số cả nước); 53 dân tộc còn lại có 14,123 triệu người (chiếm 14,7% dân số cả nước). Đồng
bào các dân tộc thiểu số cư trú và sinh sống thành cộng đồng, chủ yếu ở miền
núi cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa với nhiều sắc thái văn hóa phong phú, đa
dạng. Các dân tộc trên lãnh thổ nước ta dù tiếng nói, phong tục, tập quán khác
nhau, nhưng đều là những bộ phận của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam,
cùng chung lưng đấu cật, đoàn kết đấu tranh chống thiên tai, địch họa để dựng
nước và giữ nước. Trên cơ sở “mẫu số chung” đó, những sắc thái văn hóa riêng
biệt của từng dân tộc được định hình, phát triển và bổ sung cho nhau, tạo nên
tính thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Như
vậy, có thể thấy, quan điểm “nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà
đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” là tư tưởng tiến bộ và nhân văn,
phù hợp với thực tiễn xây dựng và phát triển của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam
và xu thế chung của cộng đồng quốc tế đang hướng tới với sự đa dạng văn hóa. Do
đó, bảo đảm tính thống
nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam là một nội dung cơ bản của xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), Đảng ta xác định, xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản
của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) nêu rõ, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI nhấn mạnh
quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát
triển bền vững đất nước; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19-5-1890 - 19-5-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan
trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, trong đó nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa
trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế
thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn
minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và
thẩm mỹ ngày càng cao... Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát
triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của công cuộc đổi mới”(1).
Trên
cơ sở đó, nhiệm vụ xây dựng con người
Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế chính là xây dựng
những giá trị, chuẩn mực con người Việt Nam phù hợp và gắn với giữ gìn, phát
huy hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn
những giá trị truyền thống với giá trị thời đại, như yêu nước, đoàn kết, tự
cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị
ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt
lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát
triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá
trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của
hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
hạnh phúc(2). Thông
qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, có thể thấy rõ những giá trị văn
hóa Việt Nam đã và đang xây dựng, củng cố là những giá trị tiến bộ, nhân văn,
kết hợp truyền thống với hiện đại và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, góp
phần hướng tới một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trao truyền các giá trị văn hóa cho thế hệ
mai sau_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
3- Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thời gian qua trên cả nước đã đạt được những
kết quả nhất định. Nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên
các lĩnh vực. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của
dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, tính đến hết năm 2018, Việt Nam có gần 3.500 di tích được xếp hạng quốc
gia, 107 di tích quốc gia đặc biệt, 12 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại. Hơn 3 triệu di vật, cổ vật có giá trị đang được bảo quản, trưng bày
tại hệ thống 166 bảo tàng; gần 8.000 lễ hội được lưu truyền gắn với nhiều phong
tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn, làng nghề thủ công, văn hóa ẩm thực,
trang phục..., trong đó có nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu
số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng nhằm bảo đảm tính đa dạng, phong phú
về sắc thái văn hóa của các vùng, miền trên cả nước. Văn hóa trong chính trị và
trong kinh tế ngày càng được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công
nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Các loại hình, các sản
phẩm và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới,
nhiều mặt của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống văn hóa của nhân
dân ngày càng phong phú, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát
huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Nhiều tấm gương sáng
trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” đã được biểu dương, lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp trong
đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung. Công tác quản lý
nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước hoàn thiện. Đội
ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước phát triển. Việc đấu tranh, phê
phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai
trái gây hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng; qua đó vai trò điều tiết của
văn hóa tiếp tục được phát huy. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế
có bước phát triển mới, góp phần quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế
giới, đồng thời thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa và các
giá trị tiến bộ của văn hóa nhân loại để bồi đắp và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đã đạt được, quá trình xây dựng văn hóa nước ta vẫn còn không ít
hạn chế. Văn hóa chưa được quan tâm và phát triển tương xứng với kinh tế và
chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực nội sinh, động lực của sự phát
triển bền vững đất nước. Môi trường văn hóa “vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã
hội, tham nhũng, tiêu cực”. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận đảng viên và người dân có chiều hướng gia tăng.
Vẫn còn khoảng cách khá lớn trong hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu,
vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân, quá trình rút ngắn khoảng
cách này diễn ra còn chậm. Ở nhiều vùng, miền trên cả nước, nhất là vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, đời sống văn hóa tinh thần của người dân còn nghèo nàn,
đơn điệu; ít có cơ hội tiếp cận thông tin cũng như thụ hưởng và tiêu dùng các
sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Thực tế còn có một số sản phẩm văn hóa chạy theo thị
hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí phản văn hóa. Bên cạnh đó, ở nhiều
nơi, công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy
cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu
quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý chưa theo kịp sự phát
triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ,
mục đích. Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế,
về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống
thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu
và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy
hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng
bá thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống
văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Hiện
nay, bên cạnh những thời cơ, đất nước ta cũng đang đối mặt với những thách thức
mới do tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế; âm mưu “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tác động từ cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa số..., cùng những thách thức an
ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là xung đột vũ trang, sự biến đổi khí
hậu và dịch bệnh, như đại dịch COVID-19... Những hạn chế, khuyết điểm trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa thời gian qua cũng là những
rào cản lớn đối với phát triển văn hóa, trong đó có mục tiêu xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4- Trước những thời cơ và thách thức đặt ra trong
thời kỳ mới, để thực hiện được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng nước ta là tiếp
tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, tạo động
lực thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cần thực hiện
đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tích cực đẩy mạnh và đa dạng hóa các
biện pháp tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính
quyền (đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ công tác trong lĩnh vực văn
hóa) và toàn dân về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa, hệ giá trị văn
hóa đối với việc bồi đắp dân khí và thúc đẩy khát vọng phát triển đất nước; từ
đó xây dựng ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam trong mỗi
công dân, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công
mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của
Đảng đã đề ra. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc
phát huy giá trị văn hóa, đề cao vai trò chủ thể của nhân dân trong sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa. Đấu tranh, ngăn
ngừa kịp thời các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch; phòng, chống
“diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng và các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Thứ hai, đổi mới thể chế văn hóa, hoàn thiện các
cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong
lĩnh vực văn hóa. Gắn kết văn hóa với chính trị, với kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành và địa phương; lồng ghép hoạt động bảo
tồn và phát huy hệ giá trị văn hóa trong triển khai chiến lược phát triển văn
hóa và du lịch Việt Nam. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý lễ hội, hiệu quả
hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Tiếp tục thực hiện hiệu quả cơ chế Nhà nước đặt
hàng các doanh nghiệp hoặc tổ chức xã hội để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng
các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá
trị quốc gia trong thời kỳ mới phù hợp với nhiệm vụ mà Đại hội XIII của
Đảng đã đề ra.
Thứ ba, triển khai hiệu quả “Chiến lược phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển từng ngành công nghiệp văn hóa với những lộ
trình, mục tiêu ưu tiên và giải pháp phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chú trọng phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa cao
và đồng bộ, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế về tài nguyên văn hóa đa dạng,
hệ giá trị văn hóa Việt Nam để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
có sức cạnh tranh; nâng cao năng lực sản xuất và sáng tạo các giá trị văn hóa
mới, tạo ra các sản phẩm văn hóa đa dạng với hàm lượng tri thức cao, mang
đậm giá trị văn hóa dân tộc; đổi mới hoạt động quảng bá thương hiệu sản phẩm,
dịch vụ văn hóa, thương hiệu doanh nghiệp văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa
các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, tạo điều kiện thu hút và khuyến khích
các tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp và nghệ sĩ tham gia vào các hoạt động văn
hóa nhằm đa dạng hóa nguồn lực
vật chất và sáng tạo cho phát triển văn hóa, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế
giới. Từng bước xây dựng cơ chế tự chịu trách nhiệm của các tổ chức văn hóa,
nghệ thuật khi sáng tạo và sản xuất sản phẩm văn hóa. Hoàn thiện cơ chế phối
hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển văn hóa. Tăng cường các hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế
về văn hóa.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện hiệu quả các hoạt động
tôn vinh, khen thưởng kịp thời gương “người tốt, việc tốt”; xây dựng những mô
hình mang tính biểu tượng trong xã hội (cá nhân, tập thể, doanh nghiệp, đặc
biệt là thế hệ trẻ...) với những phẩm chất tiêu biểu, tạo dựng được
lòng tin cho mọi người, có sức chinh phục và lan tỏa trong xã hội, khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước. Thực
hiện chính sách đãi ngộ các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu có công
bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp; khuyến khích đội ngũ
văn nghệ sĩ trong và ngoài nước phát huy tài năng, tâm huyết để sáng tạo, lan
tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp trong xã hội.
Thứ sáu, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa củng
cố, nâng cao ý thức quốc gia - dân tộc và tôn trọng ý thức dân tộc - tộc người;
bảo đảm sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, tăng cường vị thế, sức mạnh
tổng hợp quốc gia với phát huy lợi thế của tính đa dạng về mặt địa lý, văn hóa,
xã hội và nhân văn của từng vùng, địa phương, địa vực; tăng cường giáo dục tình
cảm, niềm tin, lòng tự hào đối với lãnh tụ của quốc gia - dân tộc, của chế độ
chính trị, đi đôi với chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ở các cấp, nhất là cán bộ
địa phương là người dân tộc thiểu số và phát huy vai trò của già làng, trưởng
bản; tăng cường vai trò của quốc ngữ (tiếng Việt) đi đôi với tôn trọng, phát
huy tiếng mẹ đẻ các tộc người trong chính sách ngôn ngữ quốc gia; đẩy mạnh giáo
dục để lan tỏa những giá trị có tính biểu tượng cao quý và thiêng liêng của
quốc gia - dân tộc (quốc kỳ, quốc ca, quốc huy, quốc lễ, quốc phục, quốc hoa,
quốc tửu, quốc yến...) đi đôi với tôn trọng, phát huy các loại hình văn hóa đa
dạng của từng cộng đồng dân tộc, địa phương (như hệ thống lễ hội, di tích lịch
sử - văn hóa, trang phục, nghề truyền thống, ẩm thực, kho tàng văn hóa dân
gian, tri thức dân gian…); qua đó, bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của
văn hóa Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.
Nguồn:tapchicongsan.org.vn