Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam
GS, TS Vũ Văn Hiền - Phó Chủ tịch Hội đồng Lý
luận T.Ư.
Vừa qua, trong bài
viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng,
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh:
"Chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào,
và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn
cảnh, đặc điểm ở Việt Nam". Đồng thời, đồng chí nhấn mạnh "Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách
mạng Việt Nam".
Từ các luận điểm sâu
sắc đó, có thể thấy rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vừa là
yếu tố quan trọng để định hình và vừa là ngọn cờ định hướng con đường đi lên
của cách mạng nước ta. Trong bài viết này chúng ta có thể làm rõ tầm quan trọng
của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ
và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định một trong những bài học kinh
nghiệm lớn của cách mạng nước ta là: "nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho
thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc
cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau" (Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.65). Văn kiện Đại hội XI của Đảng
một lần nữa đã nhấn mạnh: "Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải
kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.21). Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục
khẳng định: "Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới" (Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.46). Nhất quán với quan điểm được
khẳng định trong các Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng trong các quan điểm
chỉ đạo định hướng phát triển đất nước trong thời gian tới đã xác định:
"Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.109).
Nhìn ra bên ngoài, nhìn lại lịch sử Việt Nam
trong thế kỷ XX và hai thập niên đầu thế kỷ XXI, chúng ta càng thấy rằng sự lựa
chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Chính vì thế, chúng
ta có đầy đủ luận cứ khẳng định độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
"đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt
yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh" - như Giáo sư, Tiến sĩ
Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định.
1. Như chúng ta đều biết, dân tộc ta có truyền
thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong
kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã
dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền
đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ
phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các
phong trào Đông Du, Duy Tân, khởi nghĩa Yên Bái và rất nhiều cuộc đấu tranh
khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Điều đó chứng tỏ truyền thống
chống ngoại xâm vẫn in sâu trong tâm thức dân tộc, nhân dân vẫn luôn giàu lòng
yêu nước, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ
phu, các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có trí dũng và
không thiếu quyết tâm, nhưng họ, cả một số người xuất thân từ giai cấp phong
kiến và tầng lớp tư sản khi đó, đều không giải quyết được vấn đề dân tộc ở nước
ta.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy
giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt
Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam
khi ấy ở trong "tình hình đen tối như không có đường ra". Vậy bằng
con đường nào, và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó?
Nhưng rồi lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa
Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch
sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một
chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người và
người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm
của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ
nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế
phong kiến, và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi
ấy đang trở thành "trung tâm vũ trụ" chi phối và làm mưa làm gió mọi
mặt đời sống xã hội loài người.
Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, C.Mác
khái quát qua sự phát triển của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Theo
quan điểm của Mác, sự thay đổi hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái
kinh tế - xã hội khác nhất định phải có điều kiện, đó là khi hình thái kinh tế
- xã hội cũ đã mất khả năng tự phát triển và trở thành lực cản xã hội. Chủ
nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay đổi bằng chủ nghĩa xã hội, và điều đó sẽ xảy ra
ở những nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển đến đỉnh cao. Chính V.I.Lê-nin và
Đảng Bôn-sê-vích Nga đã vận dụng sáng tạo các luận điểm của C.Mác vào hoàn cảnh
lịch sử của nước Nga bằng việc, trước hết giai cấp công nhân phải giành lấy
chính quyền, sau đó dựa vào chính quyền của mình để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vậy là, chính vào thời điểm chủ nghĩa tư bản
tưởng như đang cực thịnh ấy, thì Cách mạng tháng Mười Nga đã nổ ra. Sự đột phá
của Cách mạng tháng Mười Nga mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử
thế giới. Nếu trước Cách mạng tháng Mười Nga, chế độ tư bản chủ nghĩa phát
triển đến mức người ta rêu rao như một "định mệnh", như một
"trật tự vĩnh hằng" thì sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, không ai
không thấy cái "xiềng xích" giam hãm thế giới đã bị chặt đứt,
"định mệnh" ấy thành ảo tưởng, các trật tự ấy bị lật nhào, tạo ra
phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và
chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Rõ ràng, Cách mạng tháng Mười Nga "rung
chuyển thế giới" đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung
tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; vì vậy con
đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp
cách mạng cũng thay đổi. Lý tưởng Cách mạng tháng Mười Nga đã không chỉ là ngọn
đèn pha dẫn đường tỏa sáng, mà còn có các đóng góp thực tế hết sức to lớn. Cách
mạng tháng Mười Nga là tiếng chuông đánh thức lịch sử, báo hiệu một trang sử
mới của thế giới. Thế giới trước Cách mạng tháng Mười Nga là một thời kỳ u mê,
an phận, là thời đại của chủ nghĩa tư bản. Sự đột phá của Cách mạng tháng Mười
Nga làm cho chủ nghĩa tư bản đổ vỡ, mất mát lớn. Thế giới bừng tỉnh, bung ra
với sức mạnh của sự hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội, giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Thành quả của Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo cho
loài người khả năng kìm giữ sự lộng hành của chủ nghĩa tư bản, làm thay đổi cả
những yếu tố bên trong của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng tháng Mười Nga là niềm
vinh quang của những người vô sản cùng với hàng trăm triệu người lao động thành
thị và nông thôn ở nước Nga. Họ đã lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và
phong kiến, giành quyền làm chủ cuộc sống của mình. Đó là thắng lợi của một xu
thế mới: độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội và gắn kết với chủ nghĩa xã
hội.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều
con đường, đã dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính
"Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ
còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi"
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 2011, tập 1, tr.40). Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái Quốc là
người đã gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu
nước đến với chủ nghĩa xã hội.
(Còn nữa)
GS, TS VŨ VĂN HIỀN -
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư
Nguồn:nhandan.vn