Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 120 năm ngày sinh đồng chí Lê Hồng Phong (1902 - 2022)
Tổng bí thư Lê Hồng Phong
I. KHÁI LƯỢC TIỂU SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT
ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ HỒNG PHONG
Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn,
sinh năm 1902 tại xã Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉnh
Nghệ An, trong một gia đình nông dân. Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có
truyền thống yêu nước, với nhiều sĩ phu nổi tiếng, tận mắt chứng kiến cảnh đất
nước lầm than, nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột, Lê Hồng Phong đã sớm nuôi
trong mình tư tưởng yêu nước và ý chí làm cách mạng.
Sau khi học xong Sơ học yếu lược,
do hoàn cảnh gia đình khó khăn, Lê Hồng Phong đã xin làm việc tại nhà máy Diêm
- Bến Thủy, thành phố Vinh. Chứng kiến cuộc sống khổ cực của người lao động bị
thực dân, phong kiến bóc lột tàn tệ, Lê Hồng Phong và những người cùng tâm
huyết đã vận động anh chị em công nhân nổi dậy đấu tranh. Sau sự kiện này, Lê
Hồng Phong bị đuổi việc.
Cuối năm 1923, Lê Hồng
Phong bí mật sang Xiêm (Thái Lan) gặp các nhà yêu nước Việt Nam. Năm 1924, sang
Quảng Châu (Trung Quốc) gia nhập nhóm Tâm Tâm xã và sau đó gặp Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc, được Người giác ngộ cách mạng.
Năm 1925, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên và tham dự lớp huấn luyện cán bộ cách mạng do Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc tổ chức, trở thành một trong những cán bộ đầu tiên của cách mạng
Việt Nam được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng chí được học tập
toàn diện về quân sự và chính trị tại Trường Quân sự Hoàng Phố, Trường Hàng
không ở Quảng Châu (Trung Quốc), Trường Lý luận quân sự của lực lượng không
quân Xô-viết ở Lê-nin-grat (nay là thành phố Xanh Pêtécpua), Trường Đào tạo phi
công quân sự ở Bô-rit-ơ-lep-xcơ (Liên Xô). Sau khi tốt nghiệp, Lê Hồng Phong
hoạt động trong lực lượng Hồng quân Xô-viết và nhận trọng trách liên lạc giữa
Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian này, Đồng chí
được học tập lý luận cách mạng tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng
sản ở Mát-xcơ-va, tốt nghiệp khóa ba năm (1928 - 1931), sau đó vào học tiếp năm
thứ nhất lớp nghiên cứu sinh.
Tháng 11/1931, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng
sản, đồng chí Lê Hồng Phong được phân công trở về nước lãnh đạo việc khôi phục,
phát triển tổ chức Đảng, đưa cách mạng Đông Dương vượt qua giai đoạn khó khăn,
hiểm nghèo.
Đầu năm 1932, đồng chí Lê Hồng Phong chắp nối
liên lạc với các đồng chí Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn, Lương
Văn Chi tại thành phố Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc) và xây dựng lại hệ thống
tổ chức của Đảng. Tháng 6/1932, Lê Hồng Phong bàn bạc với các đồng chí lãnh đạo
của Đảng cho công bố bản Chương trình hành động của Đảng do
Đồng chí tham gia khởi thảo và được Quốc tế Cộng sản thông qua.
Tháng 3/1934, đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư
Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài (còn gọi là Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng),
chuẩn bị các điều kiện để tổ chức Đại hội lần thứ I của Đảng.
Cuối năm 1934, Lê Hồng Phong dẫn đầu đoàn đại
biểu của Đảng đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Mát-xcơ-va (Liên Xô) từ
ngày 25/7 đến ngày 21/8/1935. Cùng đó, tháng 3/1935, Đại hội lần thứ I của Đảng
đã diễn ra thành công, đồng chí Lê Hồng Phong (được bầu vắng mặt) làm Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 7/1936, tại Thượng Hải (Trung Quốc), Đồng
chí triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương bổ sung Nghị quyết Đại hội lần thứ
I.
Tháng 11/1937, đồng chí Lê
Hồng Phong về nước và bí mật hoạt động tại Sài Gòn, trực tiếp cùng Trung ương
Đảng chỉ đạo phong trào cách mạng trong tình hình mới. Tháng 3/1938, Đồng chí
tham dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, góp phần vào việc thành lập Mặt
trận Dân chủ thống nhất Đông Dương đấu tranh chống phát xít, chống hoạt động
phá hoại của bọn Tờrốkít và các khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, tả khuynh ở trong
Đảng.
Ngày 22/6/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực
dân Pháp bắt lần thứ nhất tại Chợ Lớn, kết án 6 tháng tù giam và 3 năm quản
thúc. Ngày 23/12/1939, chúng đưa Đồng chí về quản thúc tại quê nhà Nghệ An.
Ngày 20/01/1940, Đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai, giam tại Khám Lớn,
Sài Gòn; cuối năm 1940, chúng đày Đồng chí ra Côn Đảo. Tại đây, biết Lê Hồng
Phong là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, thực dân Pháp tìm mọi cách tra tấn,
hành hạ. Trước sự độc ác, dã man của kẻ thù, Đồng chí vẫn nêu cao chí khí cách
mạng, tích cực vận động và chỉ đạo anh em tù đấu tranh chống địch đánh đập,
chống lại những luật lệ hà khắc của nhà tù. Sức khỏe suy kiệt dần vì đòn thù và
bệnh tật, Đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng vào trưa ngày 6/9/1942.
II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG VÀ CỐNG HIẾN TO LỚN
CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ HỒNG PHONG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TA
1. Đồng chí Lê Hồng
Phong - Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Cuối năm 1923, Lê Hồng
Phong cùng Phạm Hồng Thái và một số thanh niên yêu nước Nghệ - Tĩnh lên đường
sang Xiêm với quyết tâm "nếu không làm rạng rỡ non sông, quyết không trở
về Tổ quốc, quê hương". Đầu năm 1924, từ Xiêm, Lê Hồng Phong đến Quảng
Châu (Trung Quốc) và gia nhập Tâm Tâm xã - một tổ chức của nhóm thanh niên yêu
nước, hoạt động bí mật với tôn chỉ mục đích "Liên hiệp những người
có trí thức trong toàn dân Việt Nam không phân biệt ranh giới, đảng phái, miễn
là có quyết tâm hy sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến
hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người Việt Nam"[1];
tuy nhiên Tâm Tâm xã cũng bộc lộ sự thiếu hụt những yếu tố cần thiết của một tổ
chức cách mạng chân chính như không có đường lối chiến lược, sách lược rõ ràng
vì thiếu một lý luận cách mạng, tiên tiến soi đường.
Tháng 12/1924, tại một cơ
sở bí mật của Tâm Tâm xã ở Quảng Châu (Trung Quốc), Lê Hồng Phong lần đầu tiên
được gặp Nguyễn Ái Quốc; sự gặp gỡ này đã mở ra bước ngoặt trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của người thanh niên Xứ Nghệ. Lê Hồng Phong đã tiếp thu được
những quan điểm mới về con đường cứu nước và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng sớm
thấy nhận thấy những phẩm chất cách mạng ưu tú, tài năng của Lê Hồng Phong.
Tháng 02/1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Lê Hồng Phong cùng một số thanh
niên yêu nước như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu,... được lựa chọn vào Nhóm Việt Nam
Thanh niên Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc thành lập và trở thành hạt nhân của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên - lớp thế hệ cán bộ đầu tiên được Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc trực tiếp tuyển chọn, huấn luyện và đào tạo. Lê Hồng Phong và các đồng
chí của mình đã được nghe những bài giảng về lịch sử phong trào cách mạng quốc
tế và cách mạng giải phóng dân tộc, về những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin... Những bài học đó đã dẫn dắt và nâng tầm nhận thức của Lê Hồng
Phong, từ một thanh niên giàu lòng yêu nước, dám xả thân vì sự nghiệp cứu nước,
cứu dân, trở thành người cộng sản và bộc lộ tư chất, tài năng của người cán bộ
cách mạng. Chính vì thế, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi Đồng chí vào những cơ sở
đào tạo cán bộ cao cấp của Chính phủ Trung Hoa và trường đào tạo lãnh tụ của
Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô.
Trong suốt thời gian đồng chí Lê Hồng Phong đi
học tập, đào tạo ở Liên Xô, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thường xuyên liên lạc thông
qua đường dây của Quốc tế Cộng sản. Trong bức thư gửi ngày 02/3/1930, Người
thân mật gọi là “Gửi Hồng Phong Lão” với nội dung thông báo về sự kiện ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời khẳng định: “Trong nước bây giờ đã có
đảng thống nhất vững vàng, không còn những tệ chia lìa ấu trĩ như trước nữa”[2].
Điều đó thể hiện sự theo dõi, quan tâm đặc biệt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối
với Lê Hồng Phong. Không phụ lòng của người thầy dẫn dắt, đồng chí Lê Hồng
Phong đã từng bước trưởng thành cả về nhận thức lý luận và năng lực lãnh đạo.
Với những đóng góp to lớn
trong việc khôi phục và phát triển phong trào cách mạng Việt Nam những năm
1932-1935, Đồng chí được mời tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản và được bầu
làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Cộng sản; được Đại hội lần thứ I
của Đảng Cộng sản Đông Dương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân
chủ Đông Dương (1936 - 1939), với vai trò Uỷ viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung
ương, đồng chí Lê Hồng Phong có rất nhiều đóng góp vào việc hình thành chủ
trương, đường lối của Đảng, góp phần đưa cách mạng Việt Nam phát triển lên một
tầm cao mới đúng với những tư tưởng chỉ đạo của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Dù ở
cương vị và điều kiện nào, đồng chí Lê Hồng Phong luôn thể hiện một tấm
gương sáng ngời của người cộng sản: sống vì Đảng, chết không rời Đảng, trọn đời
hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Đồng
chí xứng đáng là một trong những học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
2. Đồng chí Lê Hồng Phong - Nhà lãnh đạo
xuất sắc của Đảng
Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) thất
bại, địch khủng bố dã man, kéo dài liên tục từ cuối năm 1930 đến năm 1935 đẩy
phong trào cách mạng Việt Nam vào giai đoạn vô cùng khó khăn. Hàng ngàn cán bộ,
đảng viên và chiến sĩ yêu nước bị bắn giết hoặc tù đày. Các cơ sở đảng từ Trung
ương đến địa phương bị tan vỡ, nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bị bắt
hoặc bị sát hại, như: Tổng Bí thư Trần Phú, Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc,
Nguyễn Đức Cảnh... Thực dân Pháp ở Đông Dương câu kết với đế quốc Anh ở Hương
Cảng và bọn quân phiệt ở Trung Quốc, Thái Lan, truy lùng cán bộ của Đảng ta
đang hoạt động ở ngoài nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng bị bắt ở Hồng Công.
Trong bối cảnh đó, sự hình thành một văn bản để hướng dẫn hành động cho những
người cộng sản Đông Dương và sự ra đời của một tổ chức để chắp nối các cơ sở
đảng còn lại với Quốc tế Cộng sản là đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của
Đảng ta.
Cuối năm 1931, sau khi tốt nghiệp trường Đại
học Phương Đông, đồng chí Lê Hồng Phong nhận trọng trách từ Quốc tế Cộng sản
trở về nước chỉ đạo việc tổ chức khôi phục và phát triển các cơ sở Đảng, tiếp
tục đưa phong trào cách mạng tiến lên. Sau chuyến đi dài ngày, vất vả và gian
khổ, vượt qua mạng lưới mật thám dày đặc phong toả, đến đầu năm 1932, Đồng chí
đã về đến gần biên giới Việt - Trung và bắt liên lạc được với chi bộ Đảng đang
hoạt động bí mật ở Nam Ninh (Quảng Tây). Với sự giúp đỡ của chi bộ Đảng do đồng
chí Hoàng Đình Giong làm Bí thư, đồng chí Lê Hồng Phong về Long Châu (một thị
trấn nhỏ sát biên giới Việt - Trung), tổ chức lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cơ
sở, gây ảnh hưởng của Đảng trong vùng đồng bào dân tộc Tày, Nùng từ đó mở đường
liên lạc về trong nước. Tại đây, Đồng chí liên tục mở các lớp huấn luyện cho
cán bộ từ trong nước sang học tập, có những đồng chí sau đó đã trở thành lãnh
đạo chủ chốt của Đảng như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Lương Văn Chi. Những cán bộ sau khi được đào tạo, ngay lập tức
được đưa về nước hoạt động, nhờ vậy các tổ chức Đảng trong nước được khôi phục,
nhất là đảng bộ của các tỉnh biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn và đảng bộ của
các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng,…
Đến cuối năm 1932, dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của đồng chí Lê Hồng Phong, Ban lãnh đạo lâm thời của Đảng được thành lập. Ban
lãnh đạo thống nhất chủ trương tuyên truyền, học tập và hành động theo nội dung
của bản kế hoạch “Chương trình hành động của Đảng” do Lê Hồng Phong tham
gia soạn thảo và được Quốc tế Cộng sản thông qua. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong lúc cách mạng Việt Nam bị khủng bố trắng, Đảng đang gặp
thoái trào, những tư tưởng dao động, cơ hội đang thừa cơ trỗi dậy. "Chương
trình hành động của Đảng" là một văn kiện chính trị quan trọng
mang tính chất của một cương lĩnh, đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng đề
ra từ trước; đánh giá cao những thắng lợi to lớn của phong trào cách mạng Đông
Dương; vạch kế hoạch, phương pháp hướng dẫn cán bộ, đảng viên nêu cao dũng khí
đấu tranh, tin tưởng sức mạnh của Nhân dân, giữ vững vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân, chú ý học tập kinh nghiệm thực tiễn, sửa chữa sai lầm,... để
củng cố Đảng, phát triển các đoàn thể quần chúng cách mạng. Bản Chương
trình hành động của Đảng được Lê Hồng Phong dùng làm tài
liệu giảng dạy cho các lớp cán bộ ở Quảng Tây (Trung Quốc), đồng thời được nhân
bản đưa về nước làm tài liệu tuyên truyền giáo dục cho đông đảo cán bộ, đảng
viên và Nhân dân trong nước đã phát huy tác dụng thiết thực và ảnh hưởng to
lớn.
Tháng 3/1934, dưới sự chủ
trì của Lê Hồng Phong, Hội nghị thành lập Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài (Ban
Chỉ huy ở ngoài) được tiến hành, dự Hội nghị có 5 đồng chí[3].
Hội nghị thảo luận về tình hình Đông Dương, tình hình hoạt động của Đảng ở Bắc
Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Lào; thông tin về tình hình Đảng Cộng sản Xiêm... Đặc
biệt Hội nghị bàn bạc và thông qua các bản Điều lệ của Công đoàn, Đoàn Thanh
niên Cộng sản, Nông Hội đỏ... Sự thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài cùng Hội nghị
Ban Chỉ huy ở ngoài và đại diện các tổ chức đảng trong nước (từ ngày 16 đến
ngày 21/6/1934) đã khẳng định vị trí lãnh đạo tối cao của Ban Chỉ huy ở ngoài
đối với các tổ chức Đảng, đồng thời cũng ghi nhận vai trò chỉ đạo cao nhất của
đồng chí Lê Hồng Phong đối với mọi vấn đề về đường lối, tổ chức của Đảng. Trong
đó có việc quan trọng là chuẩn bị mọi mặt về đường lối, tổ chức, nhân sự cho
Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ ngày 27 đến ngày 31/3/1935, Đại hội lần thứ
I Đảng Cộng sản Đông Dương được diễn ra. Đại hội đã thảo luận, thông qua Nghị
quyết chính trị về tình hình quốc tế, trong nước, về Đảng, các tổ chức quần
chúng; thảo luận và thông qua 12 nghị quyết về công tác vận động các đoàn thể,
tổ chức quần chúng, Điều lệ của Đảng Cộng sản và các điều lệ về đoàn thể, hội
quần chúng;... Mặc dù không trực tiếp dự Đại hội nhưng vai trò và tư tưởng chỉ
đạo của đồng chí Lê Hồng Phong đã được thể hiện trong tiến trình và kết quả của
Đại hội; đồng thời việc Đại hội bầu vắng mặt đồng chí Lê Hồng Phong vào cương
vị Tổng Thư ký (Tổng Bí thư) đã khẳng định công lao và uy tín của Đồng chí đối
với việc xây dựng đường lối chính trị, khôi phục cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương.
Trong thời gian diễn ra Đại hội lần thứ I Đảng
Cộng sản Đông Dương, đồng chí Lê Hồng Phong cùng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản
Đông Dương đến Mátxcơva tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản từ ngày 25/7 đến
ngày 21/8/1935. Trong tham luận báo cáo tại Đại hội, bằng cả lý luận và thực
tiễn, Đồng chí đã khái quát lịch sử phát triển của phong trào cách mạng Đông
Dương từ năm 1930 đến năm 1935; nêu bật những thành tích to lớn, những khuyết
điểm, kinh nghiệm mà Đảng đã thu hoạch được trong những năm chiến đấu gian khổ
nhưng vô cùng anh dũng, khả năng, triển vọng của phong trào đấu tranh với điều
kiện tình hình quốc tế và trong nước có những thay đổi mới. Những đóng góp của
Đồng chí thể hiện trong các luận điểm của tham luận đã được Đại hội đánh giá
cao, qua đó ghi nhận sự trưởng thành của Đảng Cộng sản Đông Dương và chính thức
công nhận Đảng ta là một bộ phận thuộc Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong
được bầu là Ủy viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Cộng sản.
Từ cuối năm 1935, tình hình chính trị ở Pháp và
Đông Dương diễn ra hết sức mau lẹ với nhiều thuận lợi và cũng không ít khó
khăn. Hơn lúc nào hết, đồng chí Lê Hồng Phong nhận thấy cần gấp rút truyền
đạt những điều chỉnh chiến lược của Quốc tế Cộng sản đến toàn Đảng, toàn dân
trong tình hình mới. Vì vậy, ngay sau Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, với tư cách
là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Cộng sản, Đồng chí đã triệu tập và
chủ trì Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào ngày 26/7/1936 tại
Thượng Hải (Trung Quốc); chỉ đạo Hội nghị tập trung vào việc nghiên cứu quán
triệt các nghị quyết mới của Quốc tế Cộng sản, vận dụng vào hoàn cảnh thực tế
để điều chỉnh chiến lược, sách lược cho phù hợp với tình hình hiện tại. Các vấn
đề về kẻ thù của cách mạng, nhiệm vụ của cách mạng, khẩu hiệu cách mạng, sắp
xếp lực lượng cách mạng ở Đông Dương được thảo luận kỹ và thay đổi kịp thời
trên cơ sở những chỉ dẫn của Quốc tế Cộng sản. Theo đề nghị của đồng chí Lê
Hồng Phong, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương,
bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau và các dân tộc ở Đông Dương để đấu tranh đòi những quyền dân chủ
sơ đẳng. Cùng với việc chuyển hướng nhiệm vụ cách mạng, Hội nghị quyết định
thay đổi các hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh của quần chúng, từ tổ
chức bí mật, đấu tranh bất hợp pháp là chủ yếu chuyển sang tổ chức và đấu tranh
công khai hợp pháp và nửa hợp pháp.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị, phong
trào đòi dân chủ, dân sinh lan rộng khắp Đông Dương. Mở đầu là phong trào Đông
Dương Đại hội với hàng trăm ủy ban hành động được thành lập ở các nơi. Các cuộc
biểu tình, bãi công đòi dân chủ, dân sinh, đòi thả tù chính trị diễn ra sôi
nổi, tiêu biểu là các cuộc bãi công của hàng vạn công nhân mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả.
Báo chí tiến bộ, trong đó có nhiều tờ báo của Đảng được xuất bản công khai. Sức
mạnh đấu tranh của quần chúng đã buộc chính quyền thuộc địa phải ban bố một số
quyền tự do, dân chủ và thả hàng nghìn tù chính trị. Hội nghị toàn thể Ban Chấp
hành Trung ương Đảng có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Tại Hội nghị
này, chính từ việc vận dụng chính xác đường hướng chung của Quốc tế Cộng sản,
đồng chí Lê Hồng Phong cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng điều chỉnh chiến lược
và thay đổi sách lược, đưa cách mạng Việt Nam vào một thời kỳ mới, hòa nhập với
xu thế chung của cách mạng thế giới và khu vực.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng
trong nước đòi hỏi cần có sự thảo luận để tìm ra phương thức đấu tranh thực sự
sát thực, vì vậy cuối năm 1937, đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động bí mật
tại Sài Gòn trực tiếp cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào. Sau một thời
gian tích cực chuẩn bị, từ ngày 29 đến ngày 30/3/1938, tại làng Tân Thới Nhất,
gần Bà Điểm, Hóc Môn, tỉnh Gia Định, Hội nghị Trung ương Đảng đã được tổ chức.
Hội nghị đã phân tích tình hình, nhận định rõ
thái độ chính trị của các đảng phái, về phong trào quần chúng nhân dân, đồng
thời đánh giá công tác xây dựng Đảng còn hạn chế như: số lượng đảng viên phát
triển không đều, cơ sở đảng các thành phố, tỉnh lỵ yếu hơn nông thôn, một số
đảng viên chưa nắm được chủ trương của Đảng, còn có tư tưởng cô độc, hẹp hòi;
công tác tuyên truyền, thông tin còn hạn chế, sự kết hợp giữa hoạt động công
khai và hoạt động bí mật còn có khuyết điểm. Trên cơ sở phân tích tình hình,
nhận định rõ những khuyết điểm trên các mặt của công tác Đảng, để đẩy mạnh
phong trào đòi dân sinh, dân chủ, cải thiện đời sống, đồng chí Lê Hồng Phong đã
cùng với Hội nghị Trung ương Đảng quyết định chuyển Mặt trận nhân dân phản đế Đông
Dương thành Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tranh thủ hơn nữa mọi
lực lượng có thể tranh thủ, tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân tham gia cách
mạng. Hội nghị xác định trong quá trình vận động thành lập Mặt trận cần bỏ hết
những khẩu hiệu tả khuynh làm giai cấp tư sản bản xứ và các đảng phái khác e
ngại, không dám liên kết cùng tham gia đấu tranh. Mặt khác, cũng cần đề phòng
tư tưởng hữu khuynh, chỉ coi trọng liên kết các tầng lớp trên mà xem nhẹ phong
trào quần chúng nhân dân lao động. Phương châm là phải thu hút đông đảo quần
chúng tham gia các đoàn thể có tính chất rộng rãi và tổ chức theo các hình thức
công khai, bán công khai, đấu tranh bênh vực quyền lợi thiết yếu hằng ngày của
quần chúng, trên cơ sở đó tiến hành giáo dục quần chúng, nâng trình độ giác ngộ
chính trị của quần chúng.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 3/1938, đồng chí
Lê Hồng Phong tiếp tục tham gia chỉ đạo phong trào cách mạng ở các tỉnh Nam Kỳ
và có nhiều đóng góp trên mặt trận báo chí nhằm thống nhất các quan điểm của
Đảng về đấu tranh dân chủ. Thông qua các hoạt động tư tưởng, lý luận, đồng chí
Lê Hồng Phong đã luận giải, tuyên truyền, cổ động các quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương, uốn nắn những nhận thức mơ hồ, lệch lạc
trên các vấn đề chiến lược, sách lược trong một bộ phận đảng viên và quần chúng
Nhân dân. Đồng thời, bằng ngòi bút sắc sảo, Đồng chí còn tham gia tích cực vào
cuộc đấu tranh vạch trần các luận điệu sai trái, phản động, cơ hội chủ nghĩa
của bọn tờrốtkít, tay sai của chủ nghĩa phát xít, củng cố sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng đó, Đồng chí tỏ rõ sự nhạy bén,
bản lĩnh chính trị, sự kiên định và trình độ tri thức lý luận khoa học; góp
phần quan trọng trong việc xây dựng và củng cố Đảng về mặt tư tưởng, tổ chức,
đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam thời kỳ Mặt trận dân chủ, cũng là sự
chuẩn bị tích cực để đi tới thắng lợi lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
|
Di tích Khu lưu niệm
đồngchí Tổng Bí Thư Lê Hộng Phong, xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh
Nghệ An
|
3. Tấm gương người cộng sản kiên cường,
trọn đời vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Nhân dân
Ngày 22/6/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực
dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Biết Đồng chí là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng,
bọn mật thám Pháp dùng mọi thủ đoạn tra tấn, dụ dỗ hòng khai thác các cơ sở
cách mạng, nhưng chúng vẫn không lay chuyển được ý chí kiên cường của Đồng chí.
Không tìm ra chứng cứ pháp lý để buộc tội đồng chí Lê Hồng Phong, ngày
30/6/1939, Tòa tiểu hình Sài Gòn đã kết án Đồng chí 6 tháng tù giam và 3 năm
quản thúc ở Nghệ An. Mặc dù bị quản thúc gắt gao, theo dõi chặt chẽ, Đồng chí
vẫn không nản chí thường xuyên bí mật liên hệ với tổ chức, với Đảng và dành
thời gian viết bài, bí mật gửi cho các tờ báo của Đảng như tờ Dân
Chúng, Đông Phương tạp chí... thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường
của người cách mạng kiên trung.
Tuy đã theo dõi chặt chẽ những hoạt động của Lê
Hồng Phong hòng âm mưu tách Đồng chí ra khỏi tổ chức, cắt đứt mối liên lạc với
phong trào cách mạng, với Trung ương Đảng, song chính quyền thực dân vẫn lo
ngại về sự tự do của người cộng sản Lê Hồng Phong, vì vậy, khi chiến tranh thế
giới thứ II bùng nổ, tháng 01/1940, mật thám Nam Kỳ ra Nghệ An bắt đồng chí Lê
Hồng Phong lần thứ hai và áp giải vào giam giữ tại Khám lớn Sài Gòn. Trong thời
gian gần 01 năm giam giữ, tra tấn, hành hạ thực dân Pháp vẫn không tìm được lý
do để kết tội tử hình đối với Đồng chí. Biết đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí
Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng, có con nhỏ (Hồng Minh) được mấy tháng tuổi,
chúng đã để hai người gặp nhau, hòng lung lạc tinh thần qua đó có cớ khép tội
Đồng chí dính líu tới “âm mưu lật đổ chính phủ Nam Kỳ”, nhưng chúng đã thất
bại. Mặc dù vậy, thực dân Pháp vẫn buộc tội Đồng chí phải “chịu trách nhiệm
tinh thần” cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, kết án 5 năm tù giam và 10 năm quản
thúc. Cuối năm 1940, đồng chí Lê Hồng Phong bị đày ra Côn Đảo.
Trong những ngày bị biệt
giam trong hầm đá hoặc trong Banh II (nơi giam giữ tù cộng sản), kẻ thù luôn
tìm cách hành hạ, tra tấn, đánh đập dã man đồng chí Lê Hồng Phong, hòng làm
nhụt tinh thần, ý chí của người lãnh đạo cộng sản. Đây là quãng thời gian Đồng
chí trực tiếp đối mặt với mọi âm mưu, thủ đoạn dã man và thâm độc nhất của kẻ
thù. Những kinh nghiệm và lý luận trước đây đã giúp Đồng chí hiểu thêm tính
chất khốc liệt của cuộc đấu tranh giai cấp; không chỉ là thử thách mà còn là
đòi hỏi của cuộc đấu tranh để giữ vững phẩm chất, khí tiết của người cộng sản
trong thực tế hoàn cảnh tù đầy vô cùng khắc nghiệt. Có lần Đồng chí vừa bưng
bát cơm lên ăn thì bọn cai ngục xông vào đánh túi bụi, bát cơm của Đồng chí bị
nhuộm đỏ do máu chảy từ đầu, từ mặt rớt vào, nhưng Đồng chí vẫn thản nhiên,
tiếp tục ngồi ăn “bát cơm chan máu”, với quyết tâm phải sống để “còn sống còn
chiến đấu”. Những trận đòn thù tàn ác, dã man, liên tục đó làm đồng chí Lê Hồng
Phong dần dần kiệt sức. Đồng chí đã vĩnh biệt anh em, đồng chí của mình vào
trưa ngày 6/9/1942. Trước lúc đi xa, đồng chí Lê Hồng Phong còn căn dặn: "Nhờ
các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một
lòng tin thắng lợi vẻ vang của cách mạng".
*
*
*
Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh
đồng chí Lê Hồng Phong diễn ra vào dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế; tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết về xây dựng Đảng, như: Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi,
xử lý nghiêm
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là dịp để chúng
ta thành kính và tri ân công lao, đóng góp to lớn của đồng chí Lê Hồng Phong
đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, Nhân
dân; qua đó củng cố và bồi đắp niềm tin
của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Học tập, noi gương đồng chí
Lê Hồng Phong và các bậc cách mạng tiền bối, cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị nêu cao tinh thần trách nhiệm,
tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ
quốc, phục vụ Nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước
hết, sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng và Nhân
dân với tinh thần "chí công vô tư", như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: "Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng
chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí
Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ và trăm nghìn đồng
chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên
trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào
lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc.... Tất cả
chúng ta phải noi theo các gương anh dũng, gương chí công vô tư ấy, mới xứng
đáng là người cách mạng".
Nguồn:tuyengiao.vn