Thượng tướng NGUYỄN TÂN CƯƠNG, Ủy
viên Trung ương Đảng,
Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng
Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Tổng Chỉ huy (Tổng Tư lệnh) là chức vụ chỉ huy
cao nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐND) được Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp từ đầu cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược[1].
Suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trên cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương (Trung
ương Quân ủy, Tổng Chính ủy, Bí thư Tổng Quân ủy), Tổng Tư lệnh quân đội và Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng; đặc biệt, trên cương vị Tổng Tư lệnh quân đội, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã cùng với Bộ Thống soái đề ra những quyết sách chiến lược,
đồng thời trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi các quyết sách chiến
lược đó. Bản lĩnh cách mạng và tài năng quân sự xuất chúng của Đại tướng, Tổng
Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã được thực tiễn chứng minh và luôn tỏa sáng, phát huy
mạnh mẽ, nhất là trong những thời điểm cực kỳ khó khăn và hệ trọng đối với vận
mệnh của đất nước. Vai trò đó được thể hiện ở những dấu ấn nổi bật sau:
Thứ nhất, góp phần hoạch định thành công đường
lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ
sự ủng hộ quốc tế.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh
đạo Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm
1975. Ảnh tư liệu
Suốt 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975),
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn nổi bật là một trí tuệ lỗi lạc hàng đầu, góp
phần quan trọng vào hoạch định thành công đường lối chiến tranh toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
Đường lối đó chính là tư tưởng chỉ đạo, điều hành chiến tranh cách mạng nhất
quán, xuyên suốt của Đảng ta được Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thực hiện xuất
sắc, nhằm từng bước thay đổi tương quan lực lượng, giành những thắng lợi vĩ đại
cho dân tộc Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược. Đó còn là sự kết hợp chặt chẽ giữa các mặt đấu tranh: Quân sự,
chính trị, kinh tế, ngoại giao, tư tưởng, văn hóa, giáo dục; quốc phòng với an
ninh, kinh tế... đạt được thành công trên cả hai nhiệm vụ chiến lược: Kháng
chiến và kiến quốc. Đánh địch bằng hai chân: Quân sự và chính trị; ba mũi giáp
công: Quân sự, chính trị và binh, địch vận; trên cả ba vùng chiến lược: Rừng
núi, nông thôn đồng bằng và đô thị.
Qua đó, Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi
để vũ trang toàn dân; phát huy mạnh mẽ sức mạnh nội lực với sức mạnh thời đại
để chiến thắng kẻ thù. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã
hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử được giao: Chỉ đạo, điều hành quân và dân
Việt Nam thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ,
dựa vào sức mình là chính, đánh bại chiến tranh chính quy và làm phá sản hoàn
toàn các chiến lược quân sự, chiến lược chiến tranh của thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần hiện thực
hóa thắng lợi đường lối kháng chiến bằng những chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo trên
cương vị Tổng Tư lệnh quân đội. So sánh tương quan lực lượng lúc đầu giữa ta và
địch chênh lệch, địch mạnh hơn ta gấp bội; ta chỉ hơn địch về tinh thần và
chính nghĩa; nhưng qua quá trình thực hiện chủ trương trường kỳ kháng chiến,
vừa chiến đấu vừa xây dựng, phát triển và trưởng thành, lực lượng vũ trang (LLVT)
ba thứ quân phát triển mạnh mẽ tiến lên đánh bại kẻ thù; các mặt đấu tranh khác
đều có bước phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng, nhất là phá tan
thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ rộng rãi sự ủng hộ
quốc tế. Ta đã triệt để thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển mạnh mẽ chiến
tranh du kích, chiến tranh chính quy. Không chỉ phát huy cao độ những nhân tố
nội lực và đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, Đảng ta còn chú trọng
tranh thủ tối đa sự ủng hộ, giúp đỡ về vật chất và chính trị tinh thần của bạn
bè quốc tế, đặc biệt là từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em cho nhân dân Việt
Nam chống xâm lược.
Thứ hai, chỉ đạo xây dựng LLVT nhân dân Việt
Nam vững mạnh, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đánh thắng thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
Trên cương vị Tổng Tư lệnh quân đội, Đại tướng
luôn tỏ rõ là nhà quân sự xuất chúng, có uy tín lớn đối với Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta; có những đóng góp rất to lớn vào xây dựng quân đội hùng mạnh,
chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại. Từ Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân-Đội quân chủ lực đầu tiên với 34 chiến sĩ với trang bị thô sơ, đã
từng bước phát triển thành các trung đoàn, đại đoàn thiện chiến, kiên cường
chiến đấu, đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng "Lừng lẫy Điện
Biên, chấn động địa cầu” là minh chứng sinh động về sự phát triển, trưởng thành
và lớn mạnh của Quân đội ta dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và sự chỉ huy tài tình của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.
Bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước,
Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cùng tập thể Bộ Chính trị hoạch định
những quyết sách chiến lược về xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại;
dành nhiều tâm sức chỉ đạo xây dựng các quân chủng: Phòng không-Không quân, hải
quân; các binh chủng: Pháo binh, đặc công, tăng thiết giáp, thông tin, hóa học,
công binh; triển khai xây dựng đường Hồ Chí Minh trên bộ, trên biển, chi viện
hiệu quả sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Trong chỉ đạo xây dựng LLVT ba thứ quân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn coi
trọng phát triển bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích với cơ
cấu phù hợp, có chất lượng cao, phân bố trên phạm vi cả nước; đồng thời, chú
trọng xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, chăm lo xây dựng bản lĩnh
chính trị vững vàng, tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, rèn luyện kỹ,
chiến thuật, khả năng sẵn sàng tác chiến cao cho bộ đội; thường xuyên giáo dục,
bồi dưỡng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ cho cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam.
Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chủ động đề xuất với Trung ương Đảng
thành lập các quân đoàn chủ lực 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn)
nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô
lớn, thực hiện những đòn quyết chiến chiến lược giành thắng lợi quyết định.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã
chứng minh đề xuất trên của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là sáng tạo, chính xác
và phù hợp với thực tiễn chiến trường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển tất
yếu của quân đội và quy luật phát triển của chiến tranh cách mạng. Với sự nhạy
bén và quyết đoán của nhà chiến lược quân sự sắc sảo, Đại tướng đã chỉ đạo 5
hướng tiến công bằng mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo
hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam.
Quyết chiến và toàn thắng”.
Thứ ba, vị tướng tài năng quân sự xuất chúng,
chỉ đạo tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến thuật sắc sảo
Những chiến dịch quân sự tiêu biểu giành được
thắng lợi bước ngoặt trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) đều gắn
chặt với sự chỉ đạo sắc sảo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên cương vị Tổng Tư
lệnh quân đội. Đại tướng đã góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại đó
và trở thành “vị tướng huyền thoại”, một tài năng quân sự xuất chúng của thời
đại; nhận được sự ngưỡng mộ, kính trọng của nhiều nguyên thủ quốc gia, chính
khách và đông đảo nhân dân thế giới.
Thực tiễn chứng minh, bằng nhãn quan chiến
lược nhạy bén, tư duy sắc sảo, vào những thời điểm bước ngoặt trong hai cuộc
kháng chiến, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chỉ đạo gấp rút tập trung nhân lực,
vật lực giành thắng lợi quyết định, xoay chuyển cục diện trên chiến trường.
Phương châm chỉ đạo tác chiến tập trung binh, hỏa lực, “lấy ít địch nhiều” được
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp phát triển lên tầm cao mới. Ông chỉ đạo xây dựng
thế trận, tổ chức, phối hợp tác chiến chặt chẽ LLVT ba thứ quân: Bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích; tổ chức và sử dụng hợp lý quân
đội, từ quy mô nhỏ tới sự phát triển các quân, binh chủng, các binh đoàn chủ
lực-những “quả đấm thép” quyết định thắng lợi trên chiến trường trong hai cuộc
kháng chiến. Trên cơ sở năng lực phân tích, dự báo đúng toàn cục, thấy rõ những
điểm yếu của đối phương, Đại tướng đã chỉ đạo quân và dân ta chủ động chuẩn bị
lực lượng, thế trận và tìm ra cách đánh tối ưu nhất bảo đảm “đánh chắc, tiến
chắc”, ít tổn thất nhất cho bộ đội. Nắm vững nguyên tắc, quy luật vận động của
chiến tranh và những điều cơ bản về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, nên
trong tư duy chỉ đạo tác chiến, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thường đi trước
những đối thủ được đào tạo bài bản; trở thành người tổ chức, điều hành chiến
tranh hàng đầu của dân tộc.
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp có tác phong lãnh
đạo, chỉ huy sâu sát thực tiễn, nhạy bén, quyết đoán và rất cẩn trọng trước mọi
quyết định; luôn chủ động đưa đối phương vào thế bị động, phải thay đổi thế
trận, phân tán lực lượng, chấp nhận đánh theo cách đánh của ta. Tiêu biểu là
quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang
“đánh chắc, tiến chắc” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954-mà theo ông, đó
là “Quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của mình” đã giành thắng
lợi bước ngoặt, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đó là các quyết định chọn đúng hướng đột phá chiến dịch vào Buôn Ma Thuột-Tây
Nguyên; kịp thời nắm bắt thời cơ chiến lược, đề nghị chuyển sang Kế hoạch giải
phóng miền Nam ngay trong năm 1975; kiên quyết chỉ đạo mở Chiến dịch Trị Thiên,
Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, giải phóng quần đảo Trường Sa; phê chuẩn thành
lập cánh quân hướng Đông và ra mệnh lệnh “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo,
táo bạo hơn nữa” cho toàn quân xốc tới; ra lệnh cho cánh quân hướng Đông phát
triển giải phóng Sài Gòn, phối hợp chặt chẽ với các cánh quân khác gấp rút đánh
thẳng vào sào huyệt của địch trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, giành thắng lợi trọn
vẹn, đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Kịp thời điều chỉnh, thay đổi cách đánh, đó là nhân tố quyết định làm nên Chiến
thắng Điện Biên Phủ và Đại thắng mùa Xuân 1975. Có thể khẳng định trong các
chiến dịch quân sự lớn và vào những thời khắc quan trọng, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp luôn thể hiện sự quyết đoán, sắc bén và tư duy quân sự, chiến thuật, tài
chỉ huy đặc biệt của một Tổng Tư lệnh quân đội. Tài năng quân sự xuất chúng của
Đại tướng được bồi đắp từ sự tự học, tự rèn, kế thừa có chọn lọc và từ đúc rút
qua thực tiễn chỉ đạo quân đội chiến đấu chống giặc ngoại xâm vô cùng khốc
liệt. Chính điều đó đã làm nên sự khác biệt của Đại tướng, khiến thế giới khâm
phục, suy tôn ông là danh tướng mọi thời đại.
Thứ tư, chỉ đạo, điều hành cuộc chiến tranh
nhân dân đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp không chỉ là một
tài năng quân sự xuất chúng-người đã trực tiếp góp phần kiến tạo đường lối
chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; chỉ đạo
xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh; đưa sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân
tộc Việt Nam giành được thắng lợi xứng tầm thời đại, đánh bại những danh tướng
hàng đầu của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mà còn góp phần đưa công tác
chỉ huy, điều hành cuộc chiến tranh toàn dân trở thành nghệ thuật quân sự đặc
sắc. Đại tướng chỉ đạo, điều hành cuộc chiến tranh nhân dân của Việt Nam hết
sức độc đáo, sáng tạo, sinh động và hiệu quả trên cơ sở nguyên lý cốt lõi của
đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh là quyết
định, viện trợ bên ngoài là quan trọng; đánh địch bằng ba thứ quân: Bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích; lấy bộ đội chủ lực làm nòng cốt;
kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy trên quy mô phù
hợp tính chất, đặc điểm, điều kiện kinh tế, chính trị tư tưởng và chiến trường
trong mỗi giai đoạn lịch sử. Trên cương vị Tổng Tư lệnh quân đội, ông khích lệ
toàn quân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, khơi dậy chủ nghĩa anh hùng cách
mạng để cán bộ, chiến sĩ dũng cảm chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc; chỉ đạo chuẩn bị cuộc kháng chiến trường kỳ, chỉ huy
chiến đấu linh hoạt cho đến khi đạt được thế cân bằng nhiều mặt, giành, giữ,
phát huy quyền chủ động đánh thắng các đội quân xâm lược hùng mạnh. Tổng Tư
lệnh Võ Nguyên Giáp là vị tướng chỉ huy chiến đấu chống kẻ thù trong lúc tương
quan hết sức bất lợi, thiếu vũ khí trang bị, thiếu nguồn lực tài chính, thiếu
tri thức, kinh nghiệm... từ buổi đầu LLVT chưa mạnh, đã liên tiếp đánh bại quân
đội nhà nghề thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dù Pháp và Mỹ đã huy động những nguồn
nhân lực, vật lực, kỹ thuật to lớn trong thời gian dài. Dưới sự chỉ đạo, điều
hành tài tình của Đại tướng, quân và dân Việt Nam chiến thắng hai đế quốc to là
Pháp và Mỹ bằng cuộc chiến tranh nhân dân vô cùng linh hoạt, sáng tạo và đặc
sắc: Vũ trang toàn dân đánh giặc với nhiều hình thức đa dạng, “lấy yếu chống
mạnh”, “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”; khi tập trung, lúc lại linh
hoạt chủ động phân tán lực lượng, triệt để thực hiện công tác hậu cần nhân dân,
đoàn kết chặt chẽ quân với dân, thực hiện “quân với dân như cá với nước”, giữ
nghiêm kỷ luật, đánh chắc thắng, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành
thắng lợi hoàn toàn.
Thứ năm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị Tổng Tư
lệnh mẫu mực về đạo đức cách mạng, có uy tín lớn đối với Đảng, Nhà nước, nhân
dân, quân đội và bạn bè quốc tế
Trong cuộc đời cầm quân của mình, Đại tướng
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn lan tỏa những phẩm chất cao đẹp, một nhân cách
lớn; là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư. Đặc biệt, 6 đức tính cần phải có của một vị tướng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: “Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung” được Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp thực hiện đầy đủ, trọn vẹn. Đại tướng trở thành tấm gương tiêu biểu
về sự liêm khiết, giản dị, khoan dung, nhân hậu, khiêm tốn, ham học hỏi, đoàn
kết, sống nghĩa tình, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng bào; để lại trong lòng
nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế hình ảnh về một vị tướng đức độ, tài năng,
một nhà hoạt động thực tiễn xuất sắc; suốt đời tận tụy hy sinh “phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân”, không màng chút danh lợi, riêng tư. Chính lòng nhân
hậu và tính cách đó đã góp phần đưa ông trở thành danh tướng thế giới.
Đại tướng không chỉ thể hiện tư duy độc lập,
sáng tạo, quyết đoán của một vị chỉ huy ở tầm chiến lược sắc sảo, mà còn là
người tổ chức, hoạt động vô cùng linh hoạt với tinh thần trách nhiệm cao,
nghiêm túc và cẩn trọng, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên
Giáp-người chỉ huy tối cao của Quân đội ta không bao giờ chấp nhận một chiến
thắng phải trả bằng bất kỳ giá nào về xương máu của cán bộ, chiến sĩ do những
quyết định tùy tiện hoặc thiếu thận trọng gây ra. Tất cả các quyết định xuất
phát từ trái tim của Đại tướng. Đó là cách đánh, cách tiến công nhân văn của
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Trong đó, điểm cốt lõi xuyên suốt là “dùng binh là
việc nhân nghĩa, muốn cứu nước, cứu dân”, để giải phóng dân tộc thoát khỏi ách
thống trị tàn bạo của thực dân, đế quốc, mang lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân. Với Đại tướng, “làm chiến tranh” không phải vì chiến tranh
mà vì quyền sống, quyền tự do, độc lập của cả một dân tộc. Mục tiêu đó mang
tính chính nghĩa, tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc và làm nên “phong cách cầm
quân” của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Đại tướng luôn ghi nhớ, noi gương và
thực hiện lời căn dặn của lãnh tụ Hồ Chí Minh: Làm cách mạng là phải “Dĩ công
vi thượng” (tức là phải đặt lợi ích chung lên trên hết). Cán bộ tham mưu tác
chiến có mặt tại Sở Chỉ huy Bộ trong thời điểm một số chiến dịch phát triển
không thuận lợi từng chứng kiến Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhiều đêm mất ngủ
hoặc nhiều lần rơi lệ khi nghe báo cáo tình hình cán bộ, chiến sĩ của ta bị
thương vong. Chính nỗi đau và sự trăn trở đó, góp phần quan trọng giúp Tổng Tư
lệnh Võ Nguyên Giáp tìm ra đáp số cho những bài toán hóc búa; bình tĩnh, sáng
suốt và quyết đoán xử lý chính xác các tình huống chiến lược, chiến dịch và
chiến thuật để vừa đạt được yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến, vừa giảm thương vong
cho cán bộ, chiến sĩ. “Chủ nghĩa nhân văn” đã thấm đượm vào tâm hồn vị Tổng Tư
lệnh QĐND Việt Nam ngay trong những giờ phút thử thách quyết liệt của cuộc đấu
trí, đấu lực với kẻ thù ở cả cấp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.
Phong cách chỉ huy của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên
Giáp là luôn giữ nguyên tắc, nhưng rất linh hoạt; luôn đề cao vai trò của tập
thể, phục tùng tổ chức, coi trọng thực tiễn, lắng nghe ý kiến xác đáng của quần
chúng, chuyên gia, cố vấn; dám chịu trách nhiệm trước lịch sử, táo bạo nhưng
không tùy tiện, đánh chắc thắng; tạo sự gần gũi, phát huy được tối đa trí tuệ
và sức mạnh tập thể, trong đó có vai trò, trí tuệ và sở trường mỗi cá nhân.
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp được nhân dân Việt Nam hết lòng kính trọng, suy tôn
là vị “Đại tướng của nhân dân”; cán bộ, chiến sĩ mến phục, suy tôn là người
“Anh Cả” của QĐND Việt Nam; xứng đáng là “Tư lệnh của các tư lệnh, Tướng của
các tướng”. Nhân dân và nhiều chính trị gia, tướng lĩnh trên thế giới ngưỡng
mộ, nể phục nhân cách, đức độ của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, tôn vinh ông là
Anh hùng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Đại tướng là một Tổng Tư lệnh “biết đau với
từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến
binh”[2]. Ông luôn chỉ huy bằng cái tâm trong sáng, đặt sinh mệnh của người
lính lên trên hết, trước hết. Quan điểm cốt tử trong chỉ đạo, điều hành cuộc
chiến tranh chính nghĩa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là dứt khoát phải giành
bằng được chiến thắng với hiệu quả cao nhất, nhưng phải đi đôi với hạn chế thấp
nhất sự hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ.
Đối với tù, hàng binh địch, Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp chỉ đạo đối xử hết sức nhân đạo, tạo sự cảm hóa sâu sắc, khiến cho
đối phương bị bại trận phải tâm phục, khẩu phục. Đại tướng không chỉ chỉ huy
đánh thắng địch bằng quân sự mà còn thắng quân địch bằng “nhân nghĩa”, “khoan
dung” với mọi kẻ thù khi chúng đã đầu hàng; luôn luôn căn dặn cán bộ, chiến sĩ
đối xử nhân đạo với tù, hàng binh.
Ba mươi năm chỉ đạo, điều hành cuộc chiến
tranh cách mạng (1945-1975), trên cương vị Tổng Tư lệnh quân đội, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp góp phần quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta.
Hình ảnh và những cống hiến đặc biệt xuất sắc của Đại tướng đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc luôn sống mãi với non sông, đất nước, trong lòng
nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế, đúng như khẳng định của đồng chí Nguyễn
Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đánh giá cao công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Các thế hệ cán bộ,
chiến sĩ Quân đội ta suy tôn đồng chí là Anh Cả của QĐND Việt Nam. Con người, nhân
cách và những cống hiến to lớn của đồng chí in đậm trong lòng nhân dân, là vị
tướng của nhân dân, mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc”[3].
Noi theo tấm gương đạo đức cách mạng ngời sáng
và tài năng quân sự xuất chúng của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp,
chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, toàn quân cần chủ động phối hợp với
các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả đường lối quân sự, quốc phòng mà Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc... Có kế sách
ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để
ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp
hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng
biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”[4].
Thứ hai, khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng
gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị; Chỉ thị 87 của Thường vụ Quân ủy
Trung ương về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân, cùng với các phong trào thi đua, các cuộc
vận động toàn quân, toàn quốc bằng nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, phù hợp,
hiệu quả, làm sâu sắc thêm truyền thống Quân đội ta; giữ vững và phát huy phẩm
chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới, coi đây là giải pháp nền tảng góp phần
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Nâng cao chất lượng công tác chính
trị tư tưởng trong tình hình mới, thực hiện tốt chính sách đối với quân đội và
hậu phương quân đội. Kịp thời khắc phục những nhận thức, tư tưởng lệch lạc, chủ
động đấu tranh phòng, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Tập trung xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị
kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và
nhân dân; có ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi
nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, trên cơ sở Kết luận số 16 ngày
7-7-2017 của Bộ Chính trị về tổ chức biên chế quân đội, gắn với thực hiện Nghị
quyết Trung ương 6 (khóa XII) ngày 28-10-2017 về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị; Nghị quyết số 606 ngày 16-6-2018 của Quân ủy Trung
ương về lãnh đạo triển khai Kết luận số 16 của Bộ Chính trị; các cấp ủy, tổ
chức đảng và các cơ quan, đơn vị trong toàn quân chủ động xây dựng kế hoạch,
chương trình hành động, đảm bảo chặt chẽ, đồng bộ, khoa học, phù hợp với đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ; gắn với thực hiện quan điểm, mục tiêu của các nghị
quyết, như: Nghị quyết số 28 ngày 25-12-2013 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa
XI) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 18 ngày
25-10-2017 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về một số vấn đề về tiếp tục
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; Nghị quyết số 29 ngày 25-7-2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về Chiến
lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; Nghị quyết số 30 ngày 25-7-2018 của
Bộ Chính trị (khóa XII) về Chiến lược An ninh mạng; Nghị quyết số 33 ngày
28-9-2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia.
Quyết liệt điều chỉnh tổ chức quân đội “tinh, gọn, mạnh”, cơ cấu tổ chức đồng
bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ,
giảm đầu mối trung gian, đồng bộ giữa vũ khí trang bị với nhân lực và công tác
bảo đảm, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống. Ưu tiên nguồn lực xây
dựng đồng bộ hiện đại đối với các lực lượng: Phòng không-Không quân, hải quân,
thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật, cảnh sát biển, tác
chiến không gian mạng, cơ yếu...
Thứ tư, toàn quân cần thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, xây dựng QĐND cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh,
gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng QĐND cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, tổ chức và cán bộ [5]. Trước mắt, cần đột phá đổi mới, nâng cao chất lượng
huấn luyện, diễn tập, coi trọng huấn luyện kỹ, chiến thuật đồng bộ, chuyên sâu,
sát thực tế chiến đấu theo Nghị quyết số 765 của Quân ủy Trung ương. Huấn luyện
làm chủ vũ khí trang bị, nhất là vũ khí trang bị mới, hiện đại; kết hợp huấn
luyện quân sự với giáo dục chính trị và rèn luyện thể lực của bộ đội, nâng cao
bản lĩnh, quyết tâm và khả năng cơ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Xây
dựng nền công nghiệp quốc phòng độc lập, tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng
dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; gắn kết công nghiệp quốc
phòng với công nghiệp quốc gia, bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho quân đội,
góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước.
Thứ năm, xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch,
vững mạnh "gương mẫu, tiêu biểu" theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Các cấp ủy, tổ
chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên trong quân đội luôn tuyệt đối trung thành,
kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng cách
mạng của Đảng. Quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ
thị, kết luận, quy định về công tác xây dựng đảng. Nghiên cứu, bổ sung, hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình mới; chấp hành
nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình; các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tổ
chức đảng và tổ chức cơ quan chính trị trong QĐND Việt Nam. Chăm lo xây dựng
các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội thực sự trong sạch, vững mạnh
gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, nhất
là cấp cơ sở. Thường xuyên củng cố, kiện toàn các cấp ủy, tổ chức đảng; gắn xây
dựng đội ngũ cấp ủy viên với cán bộ chủ trì các cấp bảo đảm cơ cấu, chất lượng.
Chú trọng nâng cao tính chiến đấu, năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện nghị
quyết ở các cấp. Làm tốt công tác dân vận, thực hiện gắn bó máu thịt quân với
dân; phát huy sức mạnh đoàn kết quân-dân trong tổ chức, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
Nguồn:baobacninh.com.vn