Mục tiêu Chương
trình là bảo đảm đạt tỷ lệ bao phủ vaccine phòng Covid-19: Đến hết quý I năm
2022 hoàn thành việc tiêm mũi 02 cho người dân từ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi,
tiêm mũi 03 cho người từ 18 tuổi trở lên đến lịch tiêm chủng, trừ các đối tượng
chống chỉ định tiêm; bảo đảm đủ vaccine và hoàn thành tiêm cho trẻ em từ 5 tuổi
đến dưới 12 tuổi trước tháng 9/2022.
Có chiến lược
giám sát, phát hiện các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 linh hoạt, phù hợp với tình
hình dịch trong từng giai đoạn; giảm tỷ lệ tử vong do Covid-19/1 triệu dân xuống
mức thấp hơn mức trung bình của châu Á. Tất cả các đối tượng dễ bị tổn thương
như người cao tuổi, người có bệnh nền, người khuyết tật, phụ nữ mang thai, người
không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, đồng bào dân tộc thiểu số, nhóm lao động di
cư ở các thành thị… đều được bảo đảm tiếp cận các dịch vụ y tế.
Tăng cường năng
lực, ứng dụng khoa học công nghệ trong giám sát, phân tích, dự báo tình hình dịch
bệnh tại Trung ương, địa phương. Theo dõi sát diễn biến tình hình dịch bệnh
trên thế giới, trong nước; thiết lập cơ sở dữ liệu dịch tễ học phục vụ cho công
tác dự báo và giám sát; bảo đảm chia sẻ thông tin giám sát dịch bệnh trong nước
và quốc tế. Sẵn sàng thiết lập cơ sở thu dung, điều trị Covid-19 phù hợp với
tình hình dịch bệnh tại mỗi địa phương, bảo đảm đủ trang thiết bị, vật
tư tiêu hao, phương tiện phòng hộ cá nhân, thuốc điều trị cho các
cơ sở thu dung, điều trị Covid-19; thực hiện khám bệnh, chữa bệnh từ xa, có
cơ chế cấp phát, cung ứng thuốc phù hợp, hiệu quả bảo đảm người mắc Covid-19 được
điều trị kịp thời. Tiếp cận sớm với các thuốc điều trị đặc hiệu Covid-19; đồng
thời tạo mọi điều kiện thúc đẩy nhanh nhất việc sản xuất, chuyển giao công nghệ,
gia công thuốc điều trị Covid-19 tại Việt Nam; bảo đảm chủ động được những loại
thuốc cơ bản đáp ứng yêu cầu điều trị sớm.
Thiết lập hệ thống
theo dõi sức khỏe thông qua y tế cơ sở và thầy thuốc đồng hành (hỗ trợ qua điện
thoại hoặc internet…); thành lập các trạm y tế lưu động khi cần thiết để bảo đảm
người dân được tiếp cận với dịch vụ y tế từ sớm, từ xa và từ cơ sở. Triển khai
các hoạt động về quản lý, chăm sóc, điều trị và hỗ trợ người mắc có nguy cơ
chuyển nặng ngay tại cộng đồng. Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quản lý và điều
trị người mắc Covid-19 cập nhật dữ liệu khám bệnh, chữa bệnh; thực hiện theo
dõi, khám và phục hồi chức năng một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả cho người
mắc Covid-19 sau khi khỏi bệnhtrong vòng 12 tháng.
Bảo đảm nguồn
nhân lực và chế độ cho người làm công tác phòng, chống dịch Covid-19. Thực hiện
huy động nguồn nhân lực từ các địa phương, đơn vị lân cận khi dịch bùng phát;
huy động lực lượng y tế ngoài công lập tham gia công tác phòng, chống dịch. Có
chính sách phân bổ nhân lực hợp lý cho y tế dự phòng và y tế cơ sở, thực hiện
trách nhiệm xã hội và chế độ luân phiên có thời hạn. Bảo đảm cơ cấu hợp lý đội
ngũ nhân lực là bác sĩ và điều dưỡng có đủ năng lực về hồi sức cấp cứu; nâng
cao năng lực cho các lực lượng trong ngành y tế, lực lượng tại địa phương, lực
lượng huy động tham gia phòng, chống dịch, đặc biệt là cán bộ vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo. Áp dụng mức phụ cấp ưu đãi nghề 100% đối với cán bộ y tế
dự phòng, y tế cơ sở; nghiên cứu chế độ đặc thù, ưu đãi với các lực lượng vũ trang
tham gia phòng, chống dịch.
Thành lập Quỹ
phòng, chống dịch Covid-19 trên cơ sở Quỹ vaccine phòng Covid-19. Nhà nước bảo
đảm nguồn tài chính chi cho công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên cơ sở huy
động tổng thể nguồn lực nhà nước (ngân sách trung ương, ngân sách địa phương,
nguồn tài trợ và các nguồn kinh phí hợp pháp khác); các địa phương phải bố trí
ít nhất 30% ngân sách y tế cho y tế dự phòng theo Nghị quyết số
18/2008/NQ-QH12, ngày 03/6/2008 của Quốc hội. Tiếp tục huy động, vận động sự
tham gia đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân; sự tự nguyện chi trả
của người mắc Covid-19 khi khám, điều trị theo yêu cầu.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy