Cần có những giải pháp toàn diện đối với thị trường lao động ở nước ta trong giai đoạn phát triển mới
Sự
bùng nổ ứng dựng công nghệ số, thiết bị thông minh và xu hướng ứng dụng robot
vào sản xuất kinh doanh đang đặt ra thách thức đối với thị trường lao động với
trình độ kỹ năng còn nhiều hạn chế như Việt Nam. Trong bối cảnh đó, thị trường
lao động trong nước cần những giải pháp toàn diện từ tất cả các bên liên quan để
hướng tới nâng cao chất lượng tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực trong tình
hình mới
1.Chính sách chăm lo, tạo việc làm cho
người lao động và mức độ đáp ứng các kỹ năng số của người lao động.
Chính sách chăm lo, tạo việc làm cho người
lao động:
Những
năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành nhiều chủ
trương, chính sách tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo công
ăn việc làm, phát triển thị trường lao động, nâng cao đời sống người dân. Đến
nay, về cơ bản, thị trường lao động đã được hình thành và từng bước vận hành
theo cơ chế thịt rường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cụ thể:
(1) Thị
trường lao động đã có những bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, ngày
càng hội nhập, từng bước tiệm cận với thịt rường lao động khu vực và thế giới.
- Thể
chế thị trường lao động ngày càng hoàn thiện. Hệ thống thông tin thị trường từng
bước đáp ứng yêu cầu. Quan hệ lao động được thiết lập hài hòa, công bằng, hợp
lý.
-
Các định chế thị trường hỗ trợ kết nối cung cầu và các định chế an sinh xã hội
cơ bản được hình thành tốt. Người lao động được tạo điều kiện tham gia bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động khắc phục các rủi ro mất hoặc giảm giờ
làm việc, tai nạn lao động, mất sức lao động, nghỉ hưu…
(2)
Cung – cầu lao động được hình thành và kết nối trên các nguyên lý của thị trường,
trong đó:
- Về
cầu: Cùng với kinh tế tăng trường dương liên tục nhiều năm, cầu lao động không
ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng; cơ cấu ngành, nghề theo hướng hiện đại,
từng bước tạo việc làm đầy đủ, bền vững hơn cho người lao đọng. Cơ hội việc làm
tăng với việc hằng năm, thị trường lao động thêm việc làm mới cho khoảng 1,6
triệu lao động.
- Về
cung: hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp phát triển được chuẩn hóa, hiện đại
hóa từng bước, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu
của thị trường lao động để phát triển nguồn nhân lực về số lượng, liên thông giữa
các cấp trình độ, từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
-Thị
trường lao động trở thành động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù
hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trinh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước'.
Trong
bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp; cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư tác động sâu rộng; đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 làm bộc
lộ rõ hơn các điểm yếu của thị trường lao động việc làm mà Việt Nam cần có giải
pháp khắc phục và trả lời những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Mức
độ đáp ứng các kỹ năng số của người lao động:
Nguồn
nhân lực luôn được xem là một yếu tố tạo nên sự thành công của mọi tổ chức, quốc
gia. Đây là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định năng suất, chất lượng, hiệu
quả sử dụng các nguồn lực khác trong hệ thống các nguồn lực. Trong bối cảnh cạnh
tranh kinh tế toàn cầu, tất cả các nước đều coi nguồn nhân lực là công cụ quan
trọng nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt, trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, việc trang bị những kỹ năng số cho người lao động
là một trong những điều quan trọng, có vai trò quyết định đến chất lượng nguồn
nhân lực.
Kỹ
năng số bao gồm các kỹ năng, khả năng, kiến thức và ở thói quen làm việc cho
phép con người tiếp cận và sử dụng công nghệ số. Đây là một trong những yếu tố
quan trọng đối với người lao động trong bối cảnh các hình thái công việc và
tính chất công việc không ngừng thay đổi.
Đối
với Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực được xác định là một trong những
yếu tố quan trọng đối với
người lao động trong bối cảnh các hình thái công việc và tính chất công việc
không ngừng thay đổi. Đối với Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực được xác định
là một trong những khâu đột phá chiến lược trong định hướng phát triển kinh tế
- xã hội. Việt Nam đang có lợi thế với lực lượng lao động dồi dào (với khoảng trên 50 triệu người) và cơ
cấu lao động trẻ.Tuy nhiên, nhân lực còn yếu về chất lượng, thiếu hụt lao động
có tay nghề cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập.
Trên thực tế, sự bùng nổ ứng dụng công nghệ số, thiết bị thông minh và xu hướng
ứng dụng robot vào sản xuất kinh doanh
trong những năm gần đây đang đặt ra thách thức đối với thị trường lao động với
trình độ kỹ năng còn nhiều hạn chế như Việt Nam. Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ
không còn là yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh và thu hút đầu tư nước ngoài như
trước.
Theo
thống kê tại Việt Nam, 68% công việc hiện đòi hỏi kiến thức với những kỹ năng số
cơ bản; trong đó 1/5 công việc cẩn các kỹ năng số đặc biệt chuyên sâu. Trong
khi đó, theo Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyên Bá Hoan, tỷ
lệ lao động kỹ năng cao của Việt Nam chỉ đạt 11,6% - kém cạnh tranh hơn so với
một số thị trường khác trong khu vực như Thái Lan, Philippines hay Malaysia.
Báo
cáo "Thực trạng và nhu cầu kỹ năng của lao động trong các ngành công nghiệp
chế biến chế tạo tại các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam giai đoạn 2021-2023 (ILSSA
& MPG, năm 2021), khảo sát 200 doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) cũng cho thấy, mức độ đáp ứng các kỹ năng số của người lao động trong các
doanh nghiệp FD chủ yếu mới ở mức trung bình và thấp.
Đăc
biệt, ở cấp độ cao hơn trong một số lĩnh vực đặc thù của ứng dụng công nghệ
4.0, mức độ đáp ứng về yêu cầu kỹ năng số của người lao động còn rất hạn chế.
Theo kết quả khảo sát doanh nghiệp của Viện Khoa học lao động và Xã hội năm
2021 (ILSSA), hầu hết người sử dụng lao động cho rằng người lao động mới đáp ứng
ở mức trung bình và thấp/ rất thấp trong các lĩnh vực phân tích dữ liệu
(83,25%); bảo mật dữ liệu/ bảo mật truyền thông (86%); lĩnh vực ứng dụng các hệ
thống hỗ trợ (83,3%); ứng dụng phần mềm cộng tác (84,5%); ứng dụng các kỹ năng
phi kỹ thuật như tư duy hệ thống và hiểu quy trình (74,1%). Điều này cho thấy
còn tồn tại một khoảng cách lớn giữa năng lực số của người lao động so với kỳ vọng
của người sử dụng lao động.
Hiện
nay, dưới tác động kép của đại dịch và kỷ nguyên số, thế giới việc làm tại Việt
Nam trong tương lai sẽ chứng kiến những thay đổi lớn liên quan đến người lao động,
địa điểm và cách thức làm việc. Nhiều công việc truyền thống sẽ dần biến mất hoặc
bị thay thế, trong khi một số vị trí mới sẽ ra đời. Với những xu hướng đó, Ngân
hàng Thế giới ước tính, nếu tỷ lệ lao động kỹ năng cao tại Việt Nam vẫn quá thấp
và không đủ để đáp ứng với tốc độ phát triển của chuyển đổi số, thì đến năm
2045 Việt Nam sẽ bị mất đi khoảng 2 triệu việc làm.
2. Một số nhiệm vụ, giải pháp
Giai
đoạn 2021 - 2030 là giai đoạn phát triển mới mang tính bứt phá của Việt Nam, nhất
là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra với tốc độ nhanh,
phát triển nền kinh tế số, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Bối cảnh
này cũng đặt ra những ỵêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Theo đó, con người cần phát triển đồng bộ về "tâm lực - trí lực - kỹ lực –thể
lực- cuộc sống hạnh phúc", làm chủ một số công nghệ mới, tạo nền tảng để
khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực then chốt, tạo bứt phá về năng
suất lao động, chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, đảm
bảo cho đất nước phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn mới.
Trước
những tác động của chuyển đổi số, thị trường lao động trong nước sẽ cần những
giải pháp toàn diện từ tất cả các bên liên quan để hướng tới nâng cao chất lượng
tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực trong tình hình mới.Theo đó, người lao động
phải thay đổi phương thức làm việc để có thể thích nghi và nắm bắt cơ hội;
doanh nghiệp phải thay đổi cách vận hành truyền thống để phù hợp với một xã hội
được chuyển đổi số; Chính phủ phải có những quyết sách linh hoạt, kịp thời và số
hóa hình thức quản lý.
Trong
giai đoạn phát triển mới đó, Việt Nam có cả những thời cơ, vận hội đan xen khó
khăn, thách thức; nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Chính phủ xác định ưu
tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền
kinh tế; điều hành hài hòa, hợp lý, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả, hỗ trợ lẫn nhau
giữa các chính sách tiền tệ - tài khóa; đang triển khai Chương trình phục hồi,
phát triển kinh tế xã hội (với quy mô 340 nghìn tỷ đồng - khoảng 4% GDP), tập trung vào y tế, an sinh xã hội, hỗ trợ doanh
nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng; cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, an toàn, minh bạch. Những
điều đó góp phần thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm để
giảm tỷ lệ thất nghiệp, thúc đẩy thị trường lao động phát triển.
Việt
Nam muốn có những ngành công nghiệp phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, sở
hữu những phát minh, sáng chế mới, những công nghệ tiên tiến nhất thì Việt Nam
phải đào tạo thường xuyên, đầy đủ và có đột phá để có được lao động chất lượng
cao, làm chủ được công nghệ. Cần có cơ chế đào tạo, cải cách tiền lương, tạo
môi trường làm việc tốt để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực
nhà nước, thu hút, giữ chân những lao động có trình độ, kỹ năng tay nghề cao để
chính họ trở thành nguồn lực, động lực trong mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
Để
đáp ứng các kỹ năng số của người lao động đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh, bền vững
trong giai đoạn mới, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, nắm bắt nhu cầu,
phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực trọng
tâm, trọng điểm đang là ưu tiên hiện nay như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng
phó biến đổi khí hậu... Tập trung xây dựng hệ thống quản trị thị trường lao động
hiện đại, minh bạch để môi người lao động từ khi tham gia đến khi rời thị trường
lao động được quản trị minh bạch , thống nhất tạo điều kiện cho tham gia các hoạt
động giao dịch việc làm tiếp cận thông tin về thị trường lao động việc làm; để
doanh nghiệp dễ tiếp cận nguồn cung lao động, nâng cao chất lượng lao động, cơ
sở đào tạo có chiến lược, kế hoạch đào tạo, cung ứng kịp thời, sát với nhu cầu
thực tiễn.
Đẩy
mạnh đầu tư số hóa quản trị lao động việc làm kết nói với số hóa quản lý dân
cư.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng
chính sách việc làm trên nguyên tắc có tính dự báo, tầm nhìn chiến lược, chủ động,
phù hợp với cơ chế thị trường, xây dựng
nhiệm vụ phù hợp, khả thi, hiệu quả cả ngắn hạn và dài hạn, đa dạng hoá các nguồn
tín dụng để thúc đẩy tạo việc làm mới, việc làm sáng tạo, chất lượng cao, việc
làm bền vững, việc làm xanh, phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, ứng
phó biến đổi khí hậu, việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu, vùng xa.
Ba là, chú trọng đầu tư cả
về cơ chế chính sách, nguồn lực để xây dựng hệ thống thông tin và dự báo thị
trường lao động đa tầng từ địa phương cấp tỉnh, cấp vùng tới toàn quốc, đa tĩnh
vực theo ngành nghề, có các cấp trình độ khác nhau. Hệ thống thông tin và dự
báo hướng tới đối tượng người sử dụng là các cơ quan quản lý nhà nước các cấp,
doanh nghiệp và nhất là người lao động và người sử dụng lao động. Chính sách phải
dựa trên cơ sở dữ liệu hiện tại và dự báo tương lai.
Bốn là, đổi mới toàn diện hệ
thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiệu quả để nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tận
dụng thời cơ dân số vàng, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển nguồn
nhân lực. Chú trọng đào tạo những kỹ năng ngoại ngữ, tính kỷ luật kỷ cương... để
hội nhập với thị trường lao động thế giới.
Năm là, cần quan tâm tới việc
dịch chuyển lao động, việc làm theo địa lý, địa bàn, đảm bảo có cơ cấu phân bổ
lao động việc làm hợp lý trên toàn quốc; có cơ chế khuyến khích hỗ trợ dịch
chuyển lao động, hỗ trợ các địa bàn còn yếu kém; đẩy mạnh liên kết thị trường
việc làm giữa các vùng trong nước, hình thành cơ chế kết nối cung cầu tự động
giữa thị trường trong và ngoài nước. Tạo việc làm ở khu vực nông thôn, miền núi
để người dân có thể làm việc tại quê hương với mức thu nhập ổn định, để người
lao động hạn chế phải xa quê hương. Triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở cho công
nhân, người lao động ở khu công nghiệp và các thành phố lớn. về việc này, Chính
phủ đã tổ chức Hội nghị về nhà ở xã hội với mục tiêu xây dựng ít nhất 01 triệu
căn nhà ở xã hội cho công nhân, người thu nhập thấp đến năm 2030.
Sáu là, thực hiện các văn bản,
quy định liên quan tới thị trường lao động, Quyết định số ( 522/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về công tác hướng nghiệp, phần luồng học sinh sau trung học, tạo
điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức giảng dạy chương
trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông để đẩy mạnh phân luồng và bảo
đảm quyền lợi của học sinh vừa được học
nghề, vừa được học văn hóa ngay tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhất là đối với
con em công nhân lao động, chú trọng đào tạo cả kỹ năng nghề và kỹ năng sống.
Hiện nay, chương trinh phục hồi và phát triển đang dành khoảng 2.000 tỷ đồng
cho việc đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm và dự kiến sẽ bố trí thêm, chủ
trương của chúng ta là không tiếc kinh phí cho việc này, nhưng sử dụng trọng
tâm, trọng điểm, hiệu quả.
Bảy là, rà
soát, đánh giá sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo,
giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng,
đề xuất mô hình liên kết vùng, xây dựng các trung tâm đào tạo vùng, trung tâm
đào tạo quốc gia theo vùng kinh tế trọng điểm.
Thị
trường lao động phải phục vụ đắc lực, hiệu quả việc phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn
với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thực chất, sâu rộng, hiệu quả. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từng căn dặn: "Chúng ta là những người lao động
làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học
tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới -
trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ
rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để
không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình".
Tám là, tập trung tháo gỡ
những khó khăn vướng mắc trong kết nối giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp;
xây dựng chính sách ưu đãi cho học
tập, nâng cạo kỹ năng nghề
nghiệp, đánh giá công nhận; trình độ kỹ năng cho người lao động. Đẩy mạnh đào tạo
bổ sung, đào tạo lại, đào tạo tại doanh nghiệp để thu hút hiệu quả lao động tại
chỗ nhằm giải quyết triệt để vấn đề thiếu hụt nhân lực cục bộ, vấn đề đứt gãy lao
động phục vụ phục hồi nhanh, phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Chín là, nâng
cao nhận thức về thị trường lao động, tuân thủ quy luật các quy luật của kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi lao động là hàng hóa đặc biệt
để có cơ chế, chính sách phù hợp. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp
luật đồng bộ, thống nhất để thị trường lao động phát triển theo hướng linh hoạt,
hiện đại, đầy đủ, bền vững, hiệu quả, hội nhập quốc tế, nhằm giải phóng triệt để
sức sản xuất, tập trung phát triển lao động có kỹ năng, thúc đẩy tạo việc làm bền
vững, có thu nhập cao. Tiếp tục nội luật hóa và quy định cụ thể các tiêu chuẩn
lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế (các công ước
của Tổ chức Lao động quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới) mà Việt
Nam cam kết và phê chuẩn. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết thị trường
lao động trong và ngoài nước. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động,
hệ thống trung tâm dịch vụ viêc làm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm, hệ thống
giáo dục nghề nghiệp và lưới an sinh xã hội...
Nguồn:Cuốn
Thông tin Báo cáo viên số 12 năm 2022