Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nhân dân Việt Nam nhất tề đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam độc lập
đã đập tan ách thồng trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, phát xít tàn bạo,
chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập nền dân chủ cộng
hòa, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc- kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân
dân lao động làm chủ đất nước. Tầm vóc và những giá trị trường tồn của Cách
mạng Tháng Tám là hành trang quý báu cho chúng ta xây dựng thành công một nước
Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1. Cách mạng Tháng Tám - Thắng lợi của cuộc
cách mạng lòng dân
Trong quá trình vận
động Cách mạng Tháng Tám, trên cơ sở mục tiêu được xác định trong Chánh cương
vân tốt của Đảng, qua thực tiễn các cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939
và những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh không ngừng bổ sung, phát triển
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Khi thời cơ
giải phóng dân tộc đến, Hội nghị Trung ương 6, tháng 11/1939 xác định:"...
tất cả mọi vấn đề của cách mệnh, kể cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào các
mục đích ấy mà giải quyết"'. Đến Hội nghị Trung ương 8, tháng 5/1941, Đảng
nhấn mạnh:"... nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một
nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương (...) cuộc cách
mạng Đông Dương trong giai
đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng".
Trên cơ sở đường lối đúng
đắn đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo
xây dựng lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, phát động khởi nghĩa từng phần,
đồng thời chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khi phát xít
Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, quân
đội Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động đến cực độ, chính quyền tay sai suy
yếu là lúc thời cơ thuận lợi nhất xuất hiện. Chớp thời cơ đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra lời hiệu triệu: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Thực hiện lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc vùng dậy đấu tranh
giành chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân cả nước nhất tề
đứng lên tạo thành cơn bão táp cách mạng lật nhào ách thống trị tàn bạo của
phát xít Nhật, giành lại quyền độc lập cho dân tộc. Trong vòng 2 tuần lễ, từ
ngày 14 - 28/8/1945, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã
giành được chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám
là cuộc vùng dậy của cả dân tộc trải qua mấy nghìn năm chiến đấu anh dũng, là
đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh đoàn kết toàn dân, thể hiện tầm cao trí
tuệ dân tộc và sức mạnh của thời đại. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám là trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất và là
một trong những bước ngoặt vĩ đại của cách mạng việt Nam. Với Cách mạng Tháng
Tám, Tháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh
đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa".
Cách mạng Tháng Tám làm nên cuộc đổi đời cho toàn dân tộc. Từ thân phận nô lệ,
Nhân dân ta trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Từ một
Đảng hoạt động không hợp pháp, Đảng trở thành một đảng cầm
quyển lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước.Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã
mở ra một thời đại mới, thời đại rực rỡ của lịch sử dân tộc - thời đại Hổ Chí
Minh, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Không chỉ có giá trị
và ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam,
Cách mạng Tháng Tám còn là sự kiện trọng đạị của phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trong thế kỷ XX. Đó là đòn quyết định phá tung một mắt xích quan
trọng và thúc đẩy sự tan rã nhanh chóng của hệ thống thuộc địa; mở đầu
quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
góp phần làm giàu thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó chứng tỏ
rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một
nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác - Lênin,
có đường lối đúng đắn hoàn toàn có thể giành thắng lợi.
2. Những giá trị trường tồn
Một
là, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Xâm lược Việt Nam,
thực dân Pháp không xóa đi chế độ phong kiến, mà kết hợp với nó, lập nên chế độ
chính trị thực dân - phong kiến. Ngày 17/10/1887, thực dân Pháp lập Liên bang
Đông Dương, với 4 đơn vị hành chính: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cao Miên thuộc
Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập
Ai Lao vào Liên bang Đông Dương. Như vậy, một Liên bang Đông Dương hình thành
từ năm 1887; hoàn tất các thiết chế cai trị vào 10
năm sau, tức là năm 1897; năm 1902, Pháp lấy Hà Nội làm thủ phủ của Liên bang
Đông Dương; năm 1907, Pháp ký hiệp ước trao đổi đất giữa Xiêm và Lào hoàn thành
nhiệm vụ của "nền văn minh
Pháp" về mặt hành chính là "chia để trị". Nam Kỳ trở thành thuộc địa, không phụ
thuộc vào Nam triều. Trung Kỳ là xứ bảo hộ, vẫn duy trì
chế độ phong kiến triều Nguyễn nhưng thực chất là vua "bù
nhìn". Bắc Kỳ do Pháp trực tiếp nắm, cơ quan cai trị cao nhất
là Phủ Thống sứ do thống sứ người Pháp đứng đầu với sự giúp việc của Hội đồng
Bảo hộ.
Trong lịch sử một xứ
thuộc địa như ở Việt Nam, tên nước "Việt Nam" đã bị
thực dân Pháp xóa khỏi bản đổ chính trị thế giới, mà người Việt Nam thường gọi
là "mất nước". Nỗi đau mất nước ấy đã thúc giục biết bao thế hệ người
Việt Nam đứng lên chống Pháp giành độc lập cho dân tộc, khôi phục giang sơn.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng phong
kiến (Cần Vương) nổi lên, nhưng
đều thất bại. Bại không phải vì không có vũ khí, không phải do lòng người thiếu
dũng khí, mà là do hệ tư tưởng phong kiến lúc này không phải là xu thế lịch sử.
Nhiều sĩ phu đã hướng vào luồng tân thư, tân văn để nhập hổn tư tưởng tư sản do
ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc Cách mạng Tân Hợi của Tôn Trung Sơn ở Trung Quốc
cũng như ảnh hưởng của Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản "đồng
chủng đồng văn". Tư tưởng tư sản đối với Việt
Nam là mới, nhưng đối với bước phát triển đi lên theo dòng lịch sử thì đã cũ,
thậm chí đến đẩu thế kỷ XX đã phản động, hiểu theo nghĩa nó cản trở bước tiến
của nhân loại. Do vậy, lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam cũng không chọn con
đường này. Cả hai con đường giành độc lập dân tộc đó đều
đi vào ngõ cụt. Anh dũng có thừa, các bậc tiên liệt đã không tiếc máu đào nhưng không nở cây độc lập, kết trái tự do. Trước tình
hình đó, xuất hiện phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng vô sản, đứng đầu là
Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc trở thành người tìm đường, mở đường, dẫn đường
và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (02/1930). Con đường cứu nước
do Đảng lãnh đạo đã trải
qua bao chông gai, thử thách nhưng đã đập tan chính
quyền đế quốc - phong kiến, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một hình thức nhà nước chưa từng có trong lịch
Sử dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tên nước Việt Nam đã
được tái sinh trên bản đồ chính trị thế giới với thể chế "Dân chủ
Cộng hòa". Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945 do Hồ Chí Minh đọc tại Quảng
trường Ba Đình (Hà Nội). Tuyên bố của Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam mới ngày 02/9/1945 với thế giới: "Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một
nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập ấy"5 báo
hiệu một quốc gia mới ra đời trong đời sống chính trị
của thế giới.
Hai là, Việt Nam bước sang
kỷ nguyên độc lập, tự do
Lịch sử tồn
tại và phát triển hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam với rất
nhiều sự kiện và bước ngoặt trọng đại nhưng chưa bao giờ có bước ngoặt quyết
định như thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Bước ngoặt này chấm dứt chế độ thực
dân pháp ngự tộ trên đất Việt Nam gần 100 năm;
chấm dứt sự chiếm đóng của phát xít
Nhật Bản từ mùa Thu năm 1940; chấm dứtchế
độ quân chủ phong kiến hàng ngàn
năm, chuyển sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập, tự do. Đây là bước chuyển về
chất khó có sự kiện nào sánh kịp.
Kỷ nguyên độc lập, tự
do do Đảng Cộng sản và Nhân dân Việt Nam tạo ra, và
do vậy, mục tiêu cuối cùng là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng
sản, giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Gần 80 năm trôi
qua, Nhân dân Việt Nam đã và sẽ hướng đến mục tiêu đó. Con đường đi đến mục
tiêu này trải qua nhiều gian nan, qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm
lược, qua những cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu
biên giới, qua những cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chủ quyền, qua xây dựng
đất nước tiến lên ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh.
Thế kỷ XX cũng là thế
kỷ của hai cuộc chiến tranh thế giới, của sự ra đời hệ thống xã hội chủ nghĩa
và sự sụp đổ của hệ thống này ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Mục tiêu và con
đường đi của dân tộc Việt Nam vẫn không thay đổi, vì Việt Nam nhận thấy rõ mục
tiêu và con đường đó là đúng đắn. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa Việt Nam đi trên con đường độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Gần 80 năm qua, cách mạng Việt Nam đã gặp không
ít sóng gió do sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, nhưng chúng ta
vẫn giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Kiên định được mục
tiêu đó hay không, đất nước có phát triển nhanh và bền vững hay không phụ
thuộc rất lớn vào bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực các tổ chức chính trị và con người Việt Nam chúng ta.
Ba là, Cách mạng Tháng Tám năm
1945đã đưa dân tộc Việt Nam vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới
chống chủ nghĩa thực dân
Dưới chế
độ hà khắc thực dân - phong kiến,
Nhân dân Việt Nam bị lâm vào cảnh bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị kiềm
tỏa về văn hóa Con Việt Nam bị tha hóa vì kiếp đời nô lệ. Cách mạng Tháng Tám đã tháo gông xiềng nô lệ
để Nhân dân trở
thành người làm chủ vận mệnh của mình và là người chủ của đất nước độc
lập, tự do.
Lần
đầu tiên trong lịch sử hàng
ngàn năm của dân tộc Việt Nam người dân được hưởng thành
quả của Cách mạng Tháng Tám, được đi bầu cử chọn người đại biểu thay mặt mình
vào Quốc hội để bàn và quyết
định những vấn đề quốc kế, dân
sinh. Không phân biệt đảng phái, tôn giáo, giàu nghèo, gái trai, vùng miền,
già trẻ, hễ là người Việt
Nam yêu nước đều có quyền và trách nhiệm đứng lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cuộc cách mạng đó đã trao
cho Nhân dân Việt Nam yêu
nước cơ hội mới và cơ hội lớn
chưa từng có: Tổ chức cuộc sống mới theo trào lưu tiến bộ chung của
nhân loại, phát triển toàn diện con người, vươn tới cái tất yếu tự do của quyền
con người, quyền công dân trong một xã hội hiện đại.
Với
thắng lợi của cuộc Cách mạng
Tháng Tám, dân tộc Nam sánh vai với các cường quốc năm châu đấu
tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Dân tộc Việt
Nam trở thành một trong những dân tộc tiên phong trên thế
giới đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Thế giới ghi nhận Việt Nam là tấm
gương cho đấu tranh giải phóng dân tộc,
đấu tranh cho giá trị vĩnh hằng của nhân loại là hòa bình trong độc lập,
tự do.
Bốn là, Cách mạng Tháng Tám
là kết tinh giá trị của sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc
Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công là kết tinh của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Dưới ngọn
cờ của Mặt trận Việt Minh với 10 chính sách ngời sáng giải phóng dân tộc, xây
dựng chế độ mới, mọi người Việt Nam yêu nước kết
thành một khối như triều dâng, thác đổ lướt qua mọi
khó khăn, nhấn chìm chế độ thực dân - phong kiến chỉ
trong vòng một tuần lễ khắp từ Bắc chí Nam. Mục tiêu tốỉ thượng
là giải phóng dân tộc, giành lấy chính quyền, bất chấp
mọi trở ngại, bất chấp sự khác nhau vể giai tầng, các giới, vùng miền,
quá khứ của từng người, từng cộng đồng dân cư.
Lúc này, Tổ quốc cao hơn tất thảy. Lúc này, nếu quyền
lợi của dân tộc không giải quyết được, dân tộc vẫn mãi
chịu kiếp ngựa trâu thì quyền lợi của giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Mặt trận Việt Minh đã tập hợp đoàn kết các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc
trong nước, các tôn giáo, các thân sĩ yêu nước đứng lên chống kẻ thù chung của
dân tộc. Dưới chủ trương sáng suốt sáng ngời chính nghĩa của Đảng, Mặt trận Việt
Minh lôi cuốn cả những người chưa từng tham gia đời sống chính trị, những người
lầm đường, lạc lối trong ngụy quân, ngụy quyền,
nhận rõ con đường lầm lạc trở về với dân tộc, đứng về
phía cách mạng, khi thời cơ đến, theo hiệu triệu của Đảng và Mặt trận Việt
Minh, cả nước nhất tề nổi
dậy, kết hợp lực lượng chính trị, vũ trang, chủ yếu là lực lượng chính trị của
quần chúng - Sức mạnh của lòng dân, dũng cảm xông
lên đập tan bộ máy chính quyển của phát xít Nhật và phong kiến tay sai, giành
quyền làm chủ đất nước.
Chỉ tồn
tại trong 10 năm, nhưng Mặt trận Việt Minh đã hoàn thành xuất sắc vai trò trọng
đại - là mẫu hình về phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng căn cứ vào từng điều kiện lịch sử cụ thể với những
nhiệm vụ cụ thể, sáng tạo những hình thức tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân
tộc qua các hình thức mặt trận, trong đó Mặt trận Việt Minh là hình thức điển
hình đầu tiên trong việc thống nhất mọi lực lượng có thể tập hợp được phục vụ
nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Giá trị đại đoàn kết
toàn dân tộc của Cách mạng Tháng Tám đến thế kỷ XXI vẫn giữ nguyên bản chất.
Trong điều kiện mới, biểu hiện quyền lợi chung
của toàn dân có phong phú hơn và từ đó cũng phức tạp hơn. Chủ nghĩa xã
hội theo lý luận khoa học của C.Mác - Ph.Ăngghen và Hồ
Chí Minh là hợp lý đối với con đường phát triển của Việt Nam, nó mang đầy
đủ bản chất khoa học và cách mạng. Đó cũng là mục tiêu của Cách
mạng Tháng Tám mà mốc thời gian năm 1945 mới chỉ là một chặng
để đi tới mục tiêu đó. Vấn đề còn lại là phải hành động trên con
đường đi đến mục tiêu đó sao cho chủ nghĩa xã hội thể
hiện rõ nhất bản chất khoa học và cách mạng, thể hiện tính ưu việt trên thực tế
chứ không chỉ lý luận.
Năm
là, Cách mạng Tháng Tám thành công đã
đưa Đảng Cộng sản Việt Nam
trở thành Đảng cầm quyền
Sự cầm
quyền mà Đảng có được là do năng lực và phẩm chất của
chính bản thân Đảng, là kết quả hy sinh xương máu của biết bao chiến sĩ cộng
sản và của toàn dân tộc. Trong cuộc đấu tranh đó,
Nhân dân đã trao cho Đảng quyền lãnh đạo đất
nước, bởi vì dân tin Đảng, Đảng tin dân. Lòng tin sắt đá ấy làm nên sức mạnh và
sự bền vững của quyền lực. Giá trị mang sang thế kỷ XXI của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 còn là ở chỗ cuộc cách mạng ấy đã
biến khả năng cẩm quyền của Đảng thành hiện thực. Tuy
nhiên, nếu Đảng không trong sạch, vững mạnh, bị tha hóa, bị suy thoái phẩm chất
và năng lực sẽ giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, nguy cơ mất vai trò cầm
quyền. Do đó, để giữ vững vai trò là Đảng cầm quyển, yêu cầu tất yếu
là Đảng phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn để thật sự trong sáng và vững
mạnh.
Hiện nay, tình hình
khác xa thời kỳ Đảng cầm quyền sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thời kỳ phát triển của kinh tế thị trường,
thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế trong hoàn cảnh toàn cầu
hóa, tình hình chính trị trên thế giới có sự biến động khó dự đoán. Đất nước
đang đứng trước thời cơ lớn của sự phát triển, nhưng nguy cơ, thách thức còn
lớn hơn.Thời cơ, thách thức, nguy cơ quyện với nhau trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn, thamajc hí trong cùng một thời điểm, đặt ra cho Đảng thử thách, nguy
cơ, có năng lực cầm quyền cao, tư duy, bản lĩnh chính trị phải sáng suốt va
fkieen định. Điều này phụ thuộc vào chính Đảng cầm quyền.
Đảng phải xác định
trách nhiệm đối với Nhân dân. Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền,
cán bộ, đảng viên có quyền lực trong tay, nếu không chú ý, sẽ thường dễ
vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân. Đảng cẩm quyền là
Đảng được Nhân dân giao quyền, giao trách nhiệm lãnh đạo toàn xã hội để
bảo đảm quyền lợi cho Nhân dân, cho Tổ quốc. Mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Chính phủ đều chỉ nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân
dân.
Yêu cầu đặt ra cho
Đảng cầm quyền là xây dựng
hệ thống chính trị với đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn trong sạch, vững
mạnh. Những cuộc cách mạng tiếp theo sau Cách mạng Tháng Tám là những cuộc cách
mạng khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Chúng là cuộc
chiến đấu khổng lồ chống lại những gì là cũ kỹ, hư hỏng, do đó đòi hỏi đội ngũ
cán bộ, đảng viên phải có tư duy đổi mới với bản lĩnh chính trị vững vàng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đội ngũ
cán bộ, đảng viên càng phải gần dân, hiểu dân, vì
dân, thực hiện đúng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Mih: Đảng, Chính
phủ, cán bộ, đảng viên là công bộc của Nhân dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đày tớ thật trung thành của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng, của cả hệ thống
chính trị: trí tuệ và xung lực của cán bộ, đảng viên sinh ra từ nơi dân, cho
nên dân luôn luôn là gốc của cách mạng, cầm quyển là
việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố làm; việc gì có
hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải làm cho dân giác ngộ; chớ có “lên mặt
quan cách mạng” đề “đè đầu cưỡi cổ Nhân dân”; đừng tưởng cứ “dán lên chán hai
chữ cộng sản” là dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục mà phải thực sự yêu dân,
kính dân. Cán bộ, đảng viên phải có một đời tư trong sáng. Đứng trước dân,
người cán bộ, đảng viên nếu nêu một tấm gương xấu, gương mờ thì tất yếu sẽ dẫn
đến tình trạng không lãnh đạo được ai; nói không ai nghe, làm không ai theo, và
đó là đạo đức giả. Hồ Chí Minh từng viết: “Được lòng dân, thì việc gì cũng làm
được, Trái ý dân, thì chạy ngược chạy xuôi”
Trong bài nói chuyện
ngày 10/5/1950, Hồ Chí Minh nói:
"Đảng không phải
làm quan, sai khiến quần chúng, mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm ra trò, nếu không quần chúng sẽ đá
đít:.
Mùa hạ năm 1922, khi đang ở trời Âu, Hồ Chí Minh viết: Tiếng dân chính
là truyền lại ý trời”. Đầu năm 1946, trong Lễ mừng Liên hợp quốc gia cầu nguyện
cho nền độc lập của đất nước, Hồ Chí Minh nói: “Đối với dân, ta đừng có làm gì
trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”. Tháng 10/1947, Hồ Chí Minh cho rằng”
Việc gì, cũng vì lợi ích của dân làm. Làm theo cách quan liêu… thì dân oán. Dân
oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại.
Năm 1955, Hồ Chí Minh lại viết: “Ý dân là ý trời, Làm đúng ý nguyện của dân thì
ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân ắt bại.
Tư cách của Đảng Cộng sản cầm quyền còn biểu hiện ở đức tính cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cầm quyền là phải chống quan liêu, mệnh lệnh. Không thể chấp nhận lối
làm việc “chỉ tay năm ngón”. Bệnh quan liêu là bệnh thường hay mắc phải trong
điều kiện Đảng cầm quyền nếu Đảngkhông chịu rèn luyện phong cách công tác cũng
như nâng cao tinh thần trách nhiệm. Quan liêu hiện nay không chỉ có ở cấp cao
mà xảy ra ngay ở cấp cơ sở, cấp chi bộ. Với vị trí quyền lực cao, con người ta
dễ trở nên độc tài, mất dân chủ, quên đi cội nguồn quyền lực mà mình có.
Cầm quyền nhưng phải bảo đảm dân chủ, đó không phải là nghịch lý của câu
chữ mà đó là biến chứng của cuộc sống, cần chú ý thực hành dân chủ trong Đảng
hơn nữa, coi đó là vấn đề then chốt của công tác xây dựng Đảng hơn nữa, coi đó
là vấn đề then chốt của công tác xây dựng Đảng ở giai đoạn hiện nay. Trong thực
tế hiện nay, vẫn còn một số biểu hiện mất dân chủ: (1) Nhiều cấp ủy chưa tôn
trọng quyền làm chủ của đảng viên; (2) Không ít đảng viên không thực hiện trách
nhiệm làm chủ, tỏ ra thờ ơ, thụ động chính trị, không sử dụng quyền và trách
nhiệm đóng góp ý kiến, bày tỏ chính kiến của minh ở trong tổ chức đảng; (3) Lợi
dụng dân chủ để xuyên tạc, công kích tổ chức đảng và cá nhân cán bộ, đảng viên;
(4) Núp dưới bóng daanc hủ để lồng ý kiến cá nhân thao túng tổ chức đảng, tức
là độc đoán, chuyên quyền, độc tài, lạm quyền dưới cái vỏ của dân chủ; (5) Dân
chủ hình thức, nhiều việc cũng để cho cán bộ, đảng viên đóng góp ý kiến (thậm
chí cho cả Nhân dân đóng góp ý kiến) nhưng không nghiên cứu để tiếp thu, dẫn
đến tốn kém thì giờ và tiền bạc, làm giảm lòng tin của người được hỏi ý kiến;
(6) Có thái độ không đúng đắn, lẫn lộn đối tượng, có không ít trường hợp đối xử
không đúng với những người có ý kiến “gai góc”, cho họ là phản động; (7) Thao
túng và khuyến khích tình trạng vô chính phủ,… Hệ quả của các biểu hiện đó là
Đảng không mạnh về tất cả mọi mặt, dân chủ không bảo đảm, dẫn đến dân chủ trong
xã hội không được chú ý.
Khi tiến hành Tổng khời nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng chỉ có gần 5.000
đảng viên, nhưng đó là những “vàng mười”. Xung quanh gần 5.000 đảng viên đó còn
có hàng triệu thành viên của Mặt trận Việt Minh và cả dân tộc kết thành một
khối tạo ra sức mạnh vô biên. Gia đoạn hiện nay, số lượng đảng viên đã tăng lên
đáng kể. Cách mạng Tháng Tám cho thấy, không phải là ở số lượng đảng viên nhiều
hay ít, mà là ở chất lượng, là Đảng phải xứng đáng với vai trò cầm quyền.
Từ những giá trị và tầm vóc to lớn đó, Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khẳng định là một trong những “chiến công
hiển hách và thắng lợi có ý nghĩa lích sử và thời đại của dân tộc Việt Nam”
trong thế kỷ XX. Với tinh thần quật cường của mùa Thu Tháng Tám năm 1945, đất
nước Việt Nam chắc chắn sẽ tiến nhanh và bền vững hơn, đạt được mục tiêu cao cả
của giá trị độc lập, tự do: “…để đất nước
ta phát triển nhanh, bền vững hơn, lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước
Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến vước, sánh vai với các cường quốc năm
châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước
vọng của toàn dân tộc ta.
Nguồn:Thông tin Báo cáo viên số 8
năm 2023