1. Những quan điểm sai trái , thù địch về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt
Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của
thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã từng bước rơi vào
khủng hoảng và sụp đổ. Tổng thống Nga V.Putin trong Thông điệp Liên bang
năm 2005 gọi đó là “một chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ
XX”. Sự đổ vỡ này xảy ra ngay tại Liên Xô - quê hương của Cách mạng tháng
Mười, nơi khai sinh ra nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, nơi được coi
thành trì của chủ nghĩa xã hội hiện thực khiến cho các học giả tư sản được dịp
lên tiếng phê phán, bác bỏ chủ nghĩa Mác.
Kể từ sau sự kiện gây chấn động lịch sử toàn
thế giới đến nay đã gần 30 năm, các thế lực thù địch vẫn luôn ra
sức tìm mọi cách lợi dụng xuyên tạc, công kích và phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Đúng như bài viết của đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Từ sau khi mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm
vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành
tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực
chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên
tạc, chống phá”(1).
Trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư đưa ra
hai xu hướng xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa xã hội từ sự khủng hoảng và sụp đổ ở
Liên Xô và Đông Âu:
Một là, những người không có lập trường tư tưởng vững vàng nên khi
sự kiện “chấn động toàn thế giới” xảy ra thì tỏ rõ sự hoang mang, hoài nghi về
tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, đồng nhất sự sụp
đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực
tiễn cho thấy xu hướng này xảy ra trong chính bản thân những người mácxít -
những người đã từng tôn thờ chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, những đối tượng có lập trường phi mácxít, có tư tưởng chống
phá nên đã vin vào sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô là một bằng chứng
không gì thuyết phục để phủ nhận, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, bác bỏ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của loài người. Thực tiễn cho thấy xu hướng này
chiếm đa số, trở thành làn sóng chống Mác, đòi xét lại chủ nghĩa Mác. Điển
hình cho xu hướng này là trường phái trotskyist mới. Họ cho rằng sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tất yếu lịch sử vì nó
bắt nguồn từ “sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin”; và bởi,
“chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội
“không tưởng”, không bao giờ thực hiện được”(2). Họ cũng cho rằng
chủ nghĩa xã hội khoa học mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã xây dựng chỉ là
một học thuyết “viển vông”, “ảo tưởng” nên áp dụng vào thực tiễn chỉ có thể
sinh ra những “quái thai của lịch sử”(3)... Những luận điệu đó được
tung ra khắp nơi trên thế giới với các hình thức, diễn đàn khác nhau nhằm phủ
nhận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Xuất phát từ lập
luận đó, họ cho rằng hiện nay “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà
còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”(4); rằng,
“con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang đi là trái với quá trình lịch
sử - tự nhiên”; hay đó chính là “một khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo
đầy đau khổ đi lên chủ nghĩa tư bản”(5). Do đó, theo họ, Việt Nam cần
“tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con đường đau khổ” mà một số nước đã đi
qua để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Chính những sự xuyên tạc này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến lập trường, quan điểm của những người theo chủ nghĩa
Mác. Biểu hiện rõ ràng nhất là xu hướng “phi mácxit hóa”, phân rã về tư
tưởng, ly khai với học thuyết Mác - Lênin trỗi dậy mạnh tại hàng loạt nước từng
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, cũng như trong nội bộ các đảng cộng sản,
các đảng xã hội chủ nghĩa và phong trào công nhân quốc tế. Hiện nay, mặc dù sự
sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã diễn ra gần 30 năm nhưng các phần tử cơ hội,
phản động, xét lại vẫn coi đây là một cái cớ không gì thuyết phục hơn để tiếp
tục phủ nhận chủ nghĩa Mác nói chung lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ
nghĩa Mác nói riêng.
Ở Việt Nam, từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô, có không ít người, trong đó có cả những người cộng sản đã hoài nghi
về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đã
xuất hiện những tư tưởng cơ hội đòi xét lại chủ nghĩa Mác, phủ nhận sự lựa chọn
của Đảng Cộng sản Việt Nam vì họ cho rằng khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã sụp
đổ nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa là một sự “kéo lùi lịch sử”, không tuân theo quy luật mà C.Mác đã từng
khẳng định: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên.
Như vậy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô là một cái cớ không gì thuyết phục hơn để các học giả phương Tây nắm lấy để
công kích, xuyên tạc, lý luận của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội. Điều
này gây ra sự dao động, hoài nghi của không ít người Việt Nam, trong
đó có cả những người đã từng đi theo chủ nghĩa Mác, ủng hộ, thậm chí tôn
thờ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Đó là biểu hiện của xu hướng
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong
của Đảng, của chế độ mà Đảng ta luôn nhắc đến trong những năm gần đây.
2. Sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Chúng ta không thể phủ nhận một hiện thực là
sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là một bước lùi
lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới. Đó cũng là một tổn
thất to lớn cho phong trào đấu tranh cho những mục tiêu cao cả và tốt đẹp của
nhân loại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và hạnh phúc của
con người. Ngay cả khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào thoái
trào rồi khủng hoảng, sụp đổ vào những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng ta vẫn luôn
vững vàng niềm tin về tương lai của lịch sử loài người là chủ nghĩa xã
hội: “Lịch sử thế giới đang trải qua những
bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”(6); “Đi lên chủ nghĩa xã
hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(7).
|
Nhờ định hướng đúng đắn, Việt Nam ngày càng phát triển và
khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
|
Trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư đã
khẳng định: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày
càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây”(8). Điều
này chứng tỏ, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là một hành trình trong cả nhận thức và bước đi, trong cả tư duy lý luận và
thực tiễn vận động, phát triển. Bài viết đã cô đọng, khái quát lại những đặc
trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng.
Đó là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Bài viết còn nhấn mạnh lại những vấn đề cơ bản
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có việc bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Ở Đại hội IX, Đảng ta đã đưa ra nội hàm rất cụ thể, rõ ràng
về việc “bỏ qua” : “Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo sự biến đổi về
chất của xã hội trên các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”(9). Tuy nhiên,
phần là do mơ hồ về nhận thức, song cũng phần lớn do có tư tưởng chống phá,
nhiều đối tượng đã cố tình bóp méo, xuyên tạc về việc bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam. Họ cho rằng “việc Đảng Cộng sản Việt Nam nói về vấn đề bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa là chủ quan, duy ý chí, trái với quy luật khách quan”(10).
Vì vậy trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư đã khẳng định rõ ràng thêm: “Nói
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư
bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị
không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành
tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ
nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc
trên quan điểm khoa học, phát triển”(11). Luận điểm này không chỉ tiếp tục
khẳng định, làm rõ hơn quan điểm của Đảng ở Đại hội IX mà đề ra nguyên tắc quan
trọng trong việc kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong xây dựng ở
Việt Nam. Đó là phải dựa trên quan điểm khoa học và phát
triển.
Bài viết cũng đã chỉ ra những kết quả to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên tất cả những phương diện mà nước ta đã đạt được qua 35
năm tiến hành đổi mới, đặc biệt là những kết quả, thành tích đặc biệt
mà Việt Nam đã đạt được trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy
thoái kinh tế toàn cầu trong năm 2020. Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng
định lại nhận định của Đại hội XIII khi đánh giá những kết quả mà đất nước ta,
nhân dân ta đã đạt được qua 35 năm đổi mới và 3o năm thực hiện Cương lĩnh
1991: Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường
lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá.
|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng một số lãnh đạo Đảng, Nhà
nước tại Đại hội XIII của Đảng
|
Bên cạnh đó, bài viết
cũng chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế và những thách thức mới phải đối mặt
trong quá trình phát triển đất nước. Bài viết khẳng định những hạn chế, khuyết
điểm đó là không thể tránh khỏi nên “cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý
một cách kịp thời, hiệu quả”(12). Qua bài viết, đồng chí Tổng Bí thư
vẫn tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất
yếu khách quan, thành công hay thất bại phụ thuộc phần lớn vào sự đúng đắn của
đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng
sản Việt Nam: “Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không
ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố
đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ
thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(13). Đây là một luận điểm quan
trọng đã chỉ ra cách thức, nguyên tắc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đó là không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ
nghĩa, để cho những nhân tố đó ngày càng chiếm ưu thế và đi đến chiến thắng
trong các mặt của đời sống xã hội. Để làm được điểu đó cần phải có đường lối
lãnh đạo đúng đắn, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đây là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đã được đồng chí Tổng Bí thư chỉ
ra trong bài viết. Đó không chỉ là kết quả của quá trình phát triển lý luận mà
còn cả tổng kết thực tiễn từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí
thư đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển của Việt Nam trong những năm gần
đây.
Từ việc nhận định: “Cả lý luận và thực tiễn
đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về
chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ
đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu
dài, không thể nóng vội”(14), bài viết đã chỉ ra những cách thức, giải pháp để
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Theo đồng chí Tổng Bí thư, điều
quan trọng nhất là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư
tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của
giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Ngoài ra, cần tiếp thu, bổ
sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu
mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn
luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời
đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. Luận điểm
này của đồng chí Tổng Bí thư đã nhấn mạnh thêm, làm sáng tỏ thêm quan điểm của
Đại hội XIII về việc kiên định, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn mới: “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam”(15).
Có thể khẳng định, bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng có ý nghĩa rất quan trọng đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh Đảng ta đang đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt, đưa Nghị quyết
Đại hội XIII vào cuộc sống, bài viết của đồng chí Tổng Bí thư vừa có ý nghĩa
quan trọng trong việc thống nhất nhận thức, tư tưởng về những nội dung của Nghị
quyết Đại hội XIII, vừa trực diện đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái,
thù địch về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời tiếp thêm
niềm tin, sức mạnh, tỏa sáng những giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đúng như bài viết khẳng định, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam tuy còn rất lâu dài với nhiều khó khăn, thử thách; các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành,
xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa,
gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Mặt khác, các
thế lực thù địch lại thường xuyên phủ nhận, chống phá con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, với lập trường kiên định, bản lĩnh vững
vàng, quyết tâm cao, nỗ lực lớn và sự đồng sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ ngày càng rõ nét
hơn, sự nghiệp đổi mới và phát triển ở Việt Nam sẽ ngày càng đạt được những
thành tựu to lớn hơn. Chủ nghĩa xã hội sẽ vẫn luôn là tương lai của lịch sử
loài người./.
Nguồn:tuyengiao.vn (đăngngày
19/5/2021)