Trí tuệ sáng suốt - phẩm chất cơ bản của đảng cộng sản cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cách mạng chân chính và xây dựng đảng
cộng sản cầm quyền có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến trình cách mạng Việt
Nam, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng. Tư tưởng đó
của Người tiếp tục là kim chỉ nam cho việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
của Đảng ta.
Lý luận về đảng cộng sản cầm quyền trong tư tưởng và di sản Hồ Chí Minh
Một mặt, sự phát triển sáng tạo lý luận về đảng cầm quyền của
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thực tiễn cách mạng Việt Nam là sự kế thừa, vận dụng
trung thành, sáng tạo, không biệt phái giáo điều đối với chủ nghĩa Mác; đã phát
triển học thuyết đảng kiểu mới của V.I. Lê-nin và thực sự có những cống hiến to
lớn vào lý luận về đảng cầm quyền; làm phong phú kho tàng lý luận và phương
pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; mặt
khác, tư tưởng của Người còn tác động mạnh mẽ và có ảnh hưởng to
lớn tới phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tới phong trào cách mạng thế
giới, nhất là cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, cổ vũ các dân
tộc bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Trong nội dung lý luận chủ
nghĩa Mác - Lê-nin thì lý luận
về đảng - ở đây là đảng cộng sản và đảng cộng sản cầm quyền - lại
ít được đề cập và trên thực tế, là lĩnh vực chưa có sự kiến giải thực sự sâu
sắc, còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, chưa được cắt nghĩa thấu đáo về lý luận cũng như
chưa có những tổng kết thực tiễn để kiểm chứng lý luận và phát triển lý luận
mới. Hạn chế lịch sử này là tất
yếu, bởi trong thời đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, cuộc cách mạng
cộng sản chủ nghĩa vẫn còn là một xu hướng đang vận động, đảng cộng sản chưa
thực sự trưởng thành, còn đang trong quá trình xây dựng. Vào lúc các ông viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
(năm 1848), đảng vẫn mang hình thức là “Liên đoàn những người cộng sản”, cách
mạng vô sản (cách mạng xã hội chủ nghĩa) chưa thật sự chín muồi. Công xã Pa-ri
mà các ông trực tiếp chứng kiến mới chỉ là “màn dạo đầu”, là một “thử nghiệm”
về hành động cách mạng của giai cấp vô sản ở một trong những nước tư bản tiên
tiến ở châu Âu (Pháp) nhưng cuối cùng cũng thất bại, Công xã chỉ nắm được chính
quyền trong 72 ngày. Thất bại của Công xã để lại những bài học quý giá cho đảng
cộng sản và phong trào cách mạng do đảng lãnh đạo.
Do hạn chế của thời đại,
C. Mác và Ph. Ăng-ghen chưa có đủ dữ kiện lịch sử để bàn về đảng cộng sản, nhất
là về xây dựng đảng cộng sản chấp chính và cầm quyền, càng chưa có tiền lệ để
giải quyết vấn đề này. Các ông mới chỉ dừng lại ở những nguyên lý lý luận
chung, như phân biệt “Cương lĩnh có tính địa phương” và “Cương lĩnh có tính
toàn quốc” để nhận biết đảng đã chín muồi hay chưa? C. Mác và Ph. Ăng-ghen mới
chỉ luận chứng về tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng cộng
sản chủ nghĩa. Vì thế, các ông mới dừng lại ở những dự báo, những giả thuyết
khoa học về xã hội tương lai sẽ được tổ chức như thế nào, và đội tiên phong của
giai cấp công nhân cách mạng, tức là đảng cộng sản, sẽ lãnh đạo giai cấp và xã
hội tiến đến chủ nghĩa cộng sản ra sao.
Đến V.I. Lê-nin, dù đã
trải nghiệm thực tiễn, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại
năm 1917, dựng lên nước Nga Xô-viết và khai sinh chủ nghĩa xã hội hiện thực,
Đảng Cộng sản Nga chính thức ở vào vị thế đảng cầm quyền (mà ông gọi là đảng
chấp chính), nhưng thời gian thực tế đứng đầu đảng cầm quyền của V.I. Lê-nin
quá ngắn, chỉ có bảy năm (1917 - 1924). V.I. Lê-nin mất, khi Chính sách kinh tế
mới (NEP) do ông khởi xướng chỉ vừa mới bắt đầu, trong đó có “Chỉ thị thanh
Đảng” cực kỳ quan trọng cũng chưa thực hiện được bao nhiêu. Những tư tưởng cải
cách chủ nghĩa xã hội, xây dựng và chỉnh đốn đảng của V.I. Lê-nin chưa có đủ
thời gian để thấm sâu vào thực tiễn. Ông cũng chỉ mới hình dung được một số vấn
đề liên quan tới lý luận về đảng cộng sản và đảng cộng sản cầm quyền để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu và tổng kết thấu
đáo.
V.I. Lê-nin - lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế
giới _Tranh: Tư liệu
Chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Đông Âu với các đảng cộng sản cầm quyền trải qua thời gian bảy thập
niên, nhưng trong khoảng thời gian đó, hầu như không có sự phát triển lý luận
về đảng cộng sản cầm quyền một cách căn bản. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa
(trong đó có Việt Nam) đều chịu ảnh hưởng chi phối của mô hình Xô-viết, mà ở đó
tồn tại không ít khuyết tật. Chính trong hoàn cảnh ấy, những vấn đề mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã sớm dự cảm, tiên liệu trước và nêu thành quan niệm, luận điểm, đã
giúp Đảng ta hình thành một bước khá căn bản về lý luận và phương pháp xây dựng đảng cộng sản cầm quyền.
Đó là những cống hiến quan trọng và đặc sắc của Người, bắt đầu từ “Đường cách mệnh” năm 1927, đến
“Sửa đổi lối làm việc”
năm 1947, đến “Di chúc”
năm 1969; và một loạt tác phẩm về đạo đức cách mạng, về chống chủ nghĩa cá nhân
từ năm 1958 đến năm 1969. Trong đó, nêu cao quan điểm chống chủ nghĩa cá nhân
như chống giặc “nội xâm” - kẻ thù nguy hiểm nhất ở bên trong mỗi con người, mỗi
tổ chức đảng, nó phá từ trong phá ra, đặt Đảng trước nguy cơ thành - bại, mất -
còn...
Có thể tóm tắt và khái quát hóa lý luận về
đảng cộng sản cầm quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua thực tế Đảng Cộng sản Việt
Nam, từ khi ra đời đến khi cầm quyền và tiến hành đổi mới, trên những điểm
chính yếu sau:
Thứ nhất, trong quá trình thành lập Đảng theo học thuyết đảng
kiểu mới của V.I. Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã trù tính một hình thức quá độ, đó là
lập ra “Hội Việt Nam thanh niên cách mạng”. Đó là tổ chức của những người cách
mạng trẻ tuổi, do Người trực tiếp giáo dục, huấn luyện theo chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Đó cũng là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam khi tình hình
còn chưa chín muồi cho việc thành lập Đảng.
Thứ hai, ở Việt Nam, quy luật ra đời của Đảng vừa mang tính phổ biến, vừa có tính đặc thù. Đó là sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân (phổ biến), với phong trào
yêu nước của nhân dân ta (đặc thù).
Thứ ba, từ trong bản chất của đảng cách mạng, giai cấp công
nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ đầu đã gắn bó mật
thiết với dân tộc và nhân dân. Giai cấp công nhân Việt Nam, khi Đảng ra đời tuy
số lượng còn ít, lại chưa phải là sản phẩm trực tiếp của nền sản xuất đại công
nghiệp ở trong nước,
nhưng có hậu thuẫn từ dân tộc và nhân dân, với sức mạnh truyền thống của chủ
nghĩa yêu nước nên vẫn hoàn toàn đảm trách được sứ mệnh của giai cấp lãnh đạo
cách mạng.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập từ sự hợp nhất
các tổ chức cộng sản từ ba miền trong cả nước (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam
Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn) với chính cương, sách lược và
chương trình hành động do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thảo luận và
thông qua cùng với Điều lệ vắn tắt của Đảng. Đoàn kết, thống nhất để hành động
vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội, thực
hiện độc lập dân tộc và tiến tới xây dựng xã hội cộng sản, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là biểu hiện trực tiếp sự trung thành của Đảng với lợi ích của Tổ
quốc, dân tộc và nhân dân.
Thứ năm, từ thực tế lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam (tên đảng
được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định ngay từ đầu) không chỉ là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, mà còn là đội tiên phong của dân tộc, là đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc, của nhân dân Việt Nam.
Trải qua lịch sử đấu tranh cách mạng cũng như trong tiến trình đổi mới, Đảng ta
đã khẳng định rõ ràng bản chất, đặc điểm đó của mình.
Thứ sáu, đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân
là tư tưởng chiến lược, đường lối chính trị chiến lược của Đảng, tạo nên sức
mạnh tổng hợp của cách mạng gắn liền với đoàn kết quốc tế trên lập trường giai
cấp công nhân. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là linh hồn, là hiện thân
của tư tưởng, đường lối đoàn kết, đại đoàn kết đó. Đây là một trong những giá
trị nổi bật của Đảng, đoàn kết trở thành truyền thống quý báu của Đảng, là kết
tinh và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước. Nhờ giữ vững truyền thống đó, trong lịch sử Đảng ta,
không hề xảy ra sự phân liệt về tư tưởng và tổ chức như một số đảng khác trên
thế giới đã mắc phải. Sức mạnh của Đảng luôn dựa trên nền tảng sức mạnh của dân
tộc, của nhân dân, mà lực lượng cơ bản là Công - Nông, như Nguyễn Ái Quốc khẳng
định trong tác phẩm “Đường
cách mệnh”: “công nông là người chủ cách mệnh”(1).
Thứ bảy, Đảng không chỉ tiên phong về lý luận, mà còn phải tiêu
biểu cho đạo đức cách mạng, không chỉ kiên định lý tưởng, mục tiêu, “giữ vững
chủ nghĩa”, mà còn phải phấn đấu, hy sinh đến cùng cho Tổ quốc độc lập, dân tộc
tự do và nhân dân ấm no, hạnh phúc. Ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, Đảng
ta không có lợi ích nào khác. Chỉ có giữ vững và rèn luyện suốt đời đạo đức
cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, “ít lòng ham muốn về vật chất”, suốt đời
chống chủ nghĩa cá nhân như chống giặc “nội xâm”, phải có dũng khí không màng
danh lợi, đứng ngoài vòng danh lợi thì mới có bảo đảm đạo đức cho phương hướng, đường lối
chính trị đúng đắn, cho trí tuệ sáng suốt, đoàn kết nhất trí và cho sức mạnh
của tổ chức, của kỷ luật tự giác để tập hợp dân chúng, lôi cuốn dân chúng theo
Đảng, tin Đảng(2).
Một luận điểm nổi tiếng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng ta là con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động (công
nhân); Đảng là đạo đức, là văn minh(3); do đó, xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền,
không chỉ là xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ
mà còn phải xây dựng Đảng về
đạo đức, về văn hóa. Đảng
phải thật sự trong sạch thì mới vững mạnh được. Với Chủ tịch Hồ Chí
Minh là lãnh tụ sáng lập và rèn luyện Đảng, là linh hồn của Đảng, của dân tộc, Đảng ta không chỉ có cương lĩnh chính
trị như một tuyên ngôn làm ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng, mà còn có triết
lý đạo đức, nêu gương đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu, để nhân dân tin yêu, ủng hộ, noi theo.
Thứ tám, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Đảng trung thành với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin một cách
sáng tạo, không giáo điều, biệt phái, phát triển sáng tạo lý luận
Mác - Lê-nin trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; nguyên
tắc tổ chức của Đảng là “tập
trung dân chủ”, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nêu cao tự phê
bình và phê bình, đó là quy
luật mà cũng là phương
pháp phát triển Đảng.
Trong nguyên tắc tự phê
bình và phê bình, theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó không chỉ là chính trị, mà còn là đạo đức và sâu xa, tinh tế
hơn, đó còn là văn hóa
(“phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, “có lý có tình”, “nghiêm với mình
và rộng lòng khoan thứ với người”), để xây dựng văn hóa chính trị, văn hóa đạo
đức trong Đảng, nhất là khi Đảng đã cầm quyền.
Thứ chín, một điểm đặc sắc trong tư tưởng, lý luận về đảng cộng
sản cầm quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải
dựa vào dân mà xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Căn cứ vào thái độ của dân
mà xem lại đường lối, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng đúng hay sai,
làm cho mọi đường lối, chính sách của Đảng phải hợp với ý nguyện của dân, được
lòng dân, không làm điều gì trái ý dân, “lãnh
đạo dân nhưng không theo đuôi dân chúng”. Dựa vào dân mà chấn chỉnh
tổ chức, bộ máy, giáo dục rèn luyện, giám sát, kiểm tra cán bộ. Trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”
(năm 1947), có đoạn nói về 12 điều xây dựng Đảng cách mạng chân chính, đây là những nội dung cốt lõi của tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng đảng cầm quyền(4).
Thứ mười, mấu chốt thành bại của phong trào cách mạng, của sự
nghiệp là do cán bộ, là con người. Phải coi giáo dục - đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng. Phải
chăm lo đào tạo cán bộ cho hiện tại, cho tương lai; cán bộ vừa có đức, vừa có
tài, có tài phải có đức, nhưng đức
là gốc. Khéo lãnh đạo, khéo kiểm soát cán bộ, có sự quan tâm, có
tình thương yêu, nhưng lại phải bảo vệ cán bộ bằng cách thường xuyên kiểm tra,
kiểm soát, phê bình để cán bộ không hư hỏng, không để mất cán bộ (là cái vốn
quý nhất - vốn con người).
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu, phải thường xuyên, chú trọng thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, làm
tốt công tác dân vận, củng cố đoàn kết, đồng thuận, nêu cao quyết tâm và tín tâm, tinh
thần phụ trách của cán bộ, đảng viên trước Đảng, trước nhân dân; phải thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn
để tự phát triển, tiến bộ mãi, không để xảy ra tình trạng suy thoái
và tha hóa trong Đảng; lấy sự hài lòng, tín nhiệm của nhân dân làm thước đo kết
quả công tác, năng lực lãnh đạo, uy tín của Đảng, phẩm chất, năng lực của đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Người cũng chỉ rõ, cần
giải quyết thấu đáo, hài hòa các mối quan hệ giữa Đảng với Dân, Nhà nước với
Dân, Mặt trận và Đoàn thể với Dân, giữa Đảng ta với đảng bạn, với quốc tế. Phải
có tầm nhìn xa, phương hướng
rõ, chính sách đúng, chủ trương kịp thời, biện pháp thiết thực, cụ thể; cán bộ,
đảng viên trung thành, tận tụy, khiêm tốn phục vụ dân, học hỏi dân, nâng đỡ dân
chúng lên... Muốn làm được như vậy, điều căn bản và quyết định là ở
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất
là những người lãnh đạo trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là người đứng đầu.
Đó là những điểm căn bản,
nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cộng sản cầm quyền, mãi mãi còn
giá trị đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, với cách mạng Việt Nam. Đó cũng là đóng
góp của Đảng ta, là cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào lý luận về đảng cộng
sản cầm quyền, làm phong phú, sống động kho tàng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đó cũng là minh chứng sinh động cho trí tuệ sáng
suốt của Đảng, điển hình và kết tinh ở trí tuệ sáng suốt, mưu lược, đầy bản
lĩnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ của Đảng và của dân tộc.
Bác Hồ với đồng bào các dân tộc (Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam) _Tranh: Tư liệu
Trí tuệ sáng suốt qua thực tiễn lịch sử hoạt động của Đảng và của
lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh
Trí tuệ sáng suốt của Đảng
thể hiện tập trung ở năng lực lãnh đạo của tập thể cơ quan lãnh đạo các cấp của
Đảng, đặc biệt ở cấp cao nhất và ở phẩm chất trí tuệ của lãnh tụ, của người
đứng đầu. Trí tuệ sáng suốt bảo đảm cho việc đưa ra quyết định đúng và kịp thời
trên cơ sở phân tích, đánh giá chính xác tình hình và lực lượng các bên tương
quan; đáp ứng những đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra trước phong trào cách mạng,
trước Đảng để thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên; huy động và đoàn kết được
các lực lượng xung quanh Đảng để tiến hành những hoạt động sáng tạo theo mục
tiêu đã xác định.
Trí tuệ sáng suốt của
Đảng, trước hết là tìm ra phương
hướng, hoạch định chính xác đường
lối chiến lược và những
nhiệm vụ phải giải quyết trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát
triển của cách mạng; bên cạnh đó, còn là khả năng xác định rõ ràng những điều
kiện cần và đủ để thực hiện mục tiêu và
nhiệm vụ cách mạng. Trí tuệ sáng suốt liên quan trực tiếp đến tầm nhìn chiến
lược, nhìn xa trông rộng, được dẫn dắt bởi tư duy khoa học lý luận; nhận thức
và hành động đúng quy luật, vận dụng sáng tạo quy luật khách quan bằng sự nỗ lực
cao độ của nhân tố chủ quan,
nhưng không phạm vào sai lầm chủ quan duy ý chí; không bị chủ nghĩa kinh nghiệm
chi phối, vượt lên trình độ kinh nghiệm thông thường để vươn tới trình độ lý
luận, làm chủ lý luận tiên phong; là năng
lực sử dụng lý luận như một phương pháp, để chẳng những áp dụng
sáng tạo lý luận trong thực tiễn, mà còn có năng lực tổng kết thực tiễn một
cách có lý luận, từ thực tiễn mà phát hiện và phát triển lý luận mới.
Đảng ta, mà tập trung tiêu
biểu ở Chủ tịch Hồ Chí Minh và những cộng sự gần gũi của Người trong Bộ Chính
trị, trong Ban Chấp hành Trung ương, đã thực hiện xuất sắc những chỉ dẫn có
tính nguyên tắc phương pháp luận của V.I. Lê-nin: “thống nhất lý luận với
thực tiễn”, nhất quán quan điểm thực tiễn (tiêu chuẩn của chân lý) với quan
điểm phát triển và đổi mới (tư duy biện chứng, động và mở chứ không tĩnh và đóng
kín); “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của
chủ nghĩa Mác”. Kế thừa tinh thần ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thực
hành sinh ra hiểu biết/Hiểu biết tiến lên lý luận/Lý luận lãnh đạo thực hành”(5).
Kinh nghiệm cách mạng Việt
Nam cho thấy, chừng nào Đảng có tư duy độc lập tự chủ và sáng tạo thì hoạch
định đường lối, đề ra phương châm, biện pháp đúng, do đó thúc đẩy phong trào
cách mạng phát triển tốt đẹp; ngược lại, chừng nào Đảng phạm phải sai lầm giáo
điều, máy móc, chủ quan, duy ý chí, xa rời thực tiễn, không tôn trọng quy luật
khách quan, làm trái quy luật thì không tránh khỏi sai lầm về đường lối, chủ
trương, chính sách, kết cục là đưa phong trào cách mạng tới chỗ gặp khó khăn,
khó tránh khỏi thất bại.
Khi quyết định và khởi
xướng công cuộc đổi mới, tại Đại hội VI, tháng 12-1986, Đảng ta nhấn mạnh bài
học lớn:
- Phải xây dựng Đảng ngang
tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Phải tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan.
- Phải thấm nhuần tư tưởng
“Dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm gốc” để mọi chủ trương, chính sách,
mọi việc làm đều hướng vào dân, phục vụ lợi ích của dân, đáp ứng đúng nguyện
vọng chính đáng của dân.
Có đường lối đổi mới tại
Đại hội VI là bởi Đảng ta đã nêu cao trí tuệ sáng suốt trên cơ sở tổng hợp,
tích hợp từ trí tuệ sáng suốt của nhân dân, lắng nghe tiếng nói của nhân dân từ cơ sở, cũng là sự thấu
hiểu lòng dân, nhận ra “mệnh lệnh của cuộc sống”. Rõ ràng, nếu không có trí tuệ
sáng suốt thì không thể sinh thành tư tưởng đổi mới, đường lối đổi mới, các
quyết sách kịp thời của đổi mới; không thể trả lời rõ ràng, chính xác câu hỏi
đầy hệ trọng đang đặt ra: “Tồn tại hay không tồn tại?”, “Đổi mới hay là chết?”.
Nhờ có trí tuệ sáng suốt
mà Đảng ta nhận biết
và khẳng định: Đổi
mới là cơ may ngàn vàng để phát triển; phải đón đúng thời cơ, không bỏ lỡ thời
cơ, đồng thời chủ động vượt qua thách thức, nguy cơ, dù là nghiệt ngã. Nhờ trí
tuệ sáng suốt mà Đảng ta nhận ra biện chứng của sự chuyển hóa: Đón đúng và tận dụng có hiệu quả thời cơ
thì sẽ hạn chế và vượt qua được các thách thức; khi đó, thách thức
lại trở thành thời cơ phát triển mới. Ngược lại, bỏ lỡ thời cơ (mà nhiều khi, thời cơ chỉ xuất
hiện một lần, đến rất nhanh và trôi đi rất mau, sẽ không bao giờ xuất hiện lại)
thì thách thức, nguy cơ tăng lên, phức tạp và gay gắt hơn, thậm chí làm thất
bại cả một phong trào, một sự nghiệp. Bài học đổi mới của Việt Nam do Đảng ta
lãnh đạo là sự tiếp tục hợp lô-gíc từ những kinh nghiệm thành bại của ông cha
trong lịch sử, trước xu hướng canh tân của dân tộc và thế giới.
Đảng ta kế thừa và phát
huy được trí tuệ sáng suốt đầy mẫn cảm, thông tuệ và mưu lược của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh:
+ “Cách mệnh là phá cái cũ
đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(6).
+ Cách mạng trước hết phải
có Đảng, Đảng trước hết phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa
giống như người không có trí khôn... Chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất
là chủ nghĩa Lê-nin, Mác - Lê-nin. Trong Đảng ai ai cũng phải theo chủ nghĩa
đó.
+ Cách mạng phải đến nơi (tức là triệt để),
theo gương cách mạng Nga do Lê-nin lãnh đạo.
+ Cách mạng là đổi mới, phát triển, có kế thừa, phải thường xuyên
giải quyết mối quan hệ giữa cũ và mới như một cuộc đấu tranh.
Không phải cái gì cũng
phải làm mới tất cả. Cái gì cũ mà vẫn đúng và tốt thì nên dùng, cái gì cũ tuy
đúng và tốt nhưng phiền hà, kích rích trong áp dụng vì điều kiện mới nảy sinh,
thì phải sửa chữa nó đi. Còn cái gì cũ mà tỏ ra lỗi thời, lạc hậu thì phải
bỏ... Cái gì mới mà thực sự là đúng, là tốt, là cần thì phải kiên quyết áp dụng(7).
Thực tiễn cho thấy, có
những cái cũ thực sự là lỗi thời nhưng vì người ta đã quá quen nên vẫn coi là
thường (đó là lực cản tâm lý dẫn tới trì trệ, bảo thủ, ngại thay đổi). Có những
cái mới tuy là tiến bộ, là cách mạng nhưng vì nó còn lạ, nên con người và các tổ chức đều chưa sẵn sàng tâm
lý tiếp nhận, người ta vẫn coi là xấu, vẫn chống lại. Do đó, khắc
phục một thói quen cũ, tiếp nhận một tư tưởng mới, giải quyết mối quan hệ giữa
cũ và mới là cả một cuộc đấu tranh, phức tạp, lâu dài, phải quyết tâm, phải có
phương pháp khoa học mới giải quyết được(8).
+ Cho đến Di chúc để lại cho toàn dân,
toàn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cho chúng ta tư tưởng của Người về
đổi mới: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để
tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu
khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào
lực lượng vĩ đại của toàn dân”(9).
Rõ ràng là, những tư
tưởng, luận điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ những ngày chuẩn bị lập
Đảng, dựng nước cho đến tận những ngày tháng cuối cùng của một cuộc đời, một sự
nghiệp đau đáu việc dân, việc nước, lo cho hiện tại và trù tính cho tương lai,
chính là biểu tượng kiệt xuất cho trí tuệ Việt Nam, cho trí tuệ sáng suốt của
Đảng. Người là lãnh tụ kiệt xuất của Đảng cách mạng chân chính, Đảng của trí tuệ, Đảng của đổi mới, Đảng
của phát triển. Người là kết tinh cho sức mạnh sáng tạo của Đảng và
dân tộc, sức mạnh truyền cảm hứng vĩ đại cho toàn Đảng, toàn dân hướng tới
tương lai và triển vọng tốt đẹp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam - một xã hội văn hóa cao.
Với tiềm lực tư tưởng, trí tuệ của dân tộc, dân tộc Việt Nam nhất định sẽ trở
thành một dân tộc thông thái.
Trí tuệ sáng suốt của Đảng là phẩm chất cơ bản của Đảng cầm quyền có trọng
trách lãnh đạo thành công sự nghiệp vẻ vang đó, theo khát vọng Hồ Chí Minh.
Trí tuệ sáng
suốt, xét ra không chỉ là năng lực trí tuệ, mà còn có bệ đỡ của đạo đức, phẩm
hạnh. Với đảng cộng sản cầm quyền, cùng với trí tuệ khoa học, đảng phải có đạo đức
cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng để không bao giờ mất phương hướng
trong lãnh đạo và cầm quyền, nhất là ở những thời điểm thử thách bước ngoặt.
Cộng hưởng tất cả những tác nhân đó làm nên sức mạnh, bản lĩnh của Đảng trên
nền tảng sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. V.I. Lê-nin đã từng
cảnh báo, nguy cơ lớn nhất với đảng cầm quyền là xa rời quần chúng, thoát ly
thực tiễn, phải luôn luôn đề phòng “căn bệnh kiêu ngạo cộng sản” và tệ hành
chính quan liêu cũng như nạn hối lộ (tham nhũng). Những “căn bệnh” tệ hại đó
đều sẽ được sinh ra, nếu đảng cộng sản cầm quyền không rèn luyện đạo đức, không
giữ gìn bản chất của Đảng.
Và, nếu một đảng lãnh đạo,
cầm quyền lại mất phương hướng
chính trị thì đồng nghĩa với hành động tự sát, đưa cả phong trào và
sự nghiệp cách mạng tới thất bại. Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, mất vai trò cầm
quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ sau bảy thập niên tồn tại (dù đã có không
ít công trạng hiển hách, huy hoàng) như điều đã xảy ra cách đây ba thập niên là
một minh chứng đau đớn, một bi
kịch thời đại, mãi mãi có ý nghĩa cảnh báo, còn nguyên tính thời sự với Đảng ta
và các đảng cộng sản khác. Qua đó, chúng ta càng thấy rõ tầm nhìn
chiến lược, “tầm mắt đại dương” của trí tuệ sáng suốt và đạo đức cao cả, trong
sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - một thiên tài tư tưởng và tổ chức của Đảng, của
dân tộc ta.
Sự sáng suốt trí tuệ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta là ở chỗ nhận ra xu thế, triển vọng của lịch
sử, tin với một niềm tin khoa
học chính xác nhất, tin với một niềm tin cách mạng mãnh liệt nhất, đó là tin
vào sức mạnh của nhân dân, của chủ nghĩa yêu nước, giá trị cao quý nhất của
lịch sử Việt Nam, của văn hóa Việt Nam, là chung đúc của chân lý và đạo lý, đạo
nghĩa dân tộc và thời đại để khẳng định rằng, đế quốc Mỹ xâm lược
nhất định thua, nhân dân Việt Nam nhất định thắng. Đó là một điều chắc chắn(10). Đây là
một thông điệp mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền tới dân tộc và truyền
đi cả thế giới nhân loại. Cho đến khi viết Di
chúc, mà Người khiêm nhường chỉ gọi là một bức thư, là mấy lời để
lại, niềm tin mãnh liệt của Người không hề thay đổi. Với một nỗi niềm tiếc nuối
- vĩ đại và cao thượng của một nhân cách lớn của thời đại(11), Người
chỉ tiếc rằng, “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”(12).
Đó là đạo đức cao cả
của con người đã tự nguyện dâng hiến cả đời mình cho dân cho nước. Người nói:
“Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”(13), cũng là trí tuệ sáng suốt Hồ Chí
Minh, đúng như một triết lý nhân sinh: “Ai có đạo đức sẽ tiếp thu chân lý dễ
hơn”. Với trí tuệ sáng suốt,
Đảng lãnh đạo và cầm quyền sẽ lãnh đạo, cầm quyền bằng khoa học, bằng chính
trị, đạo đức và văn hóa.
Những bài học rút ra từ trí tuệ sáng suốt của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh
cần tiếp tục được vận dụng và phát triển hiện nay
- Bài học thứ
nhất, trí tuệ sáng suốt của Đảng có được là nhờ
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận khoa học với thực tiễn hoạt động trong
những điều kiện lịch sử cụ thể, nhờ có năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, không máy móc, giáo điều, cứng nhắc, trí
tuệ khoa học phải gắn liền với đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị kiên
định, vững vàng trước mọi biến cố và thử thách. Trí tuệ sáng suốt
đòi hỏi sự vận dụng đúng thiên thời, địa lợi với nhân hòa mà nhân hòa là gốc, là quan trọng nhất.
Đó cũng là sự sáng suốt trong nhận thức và xử lý các mối quan hệ Thời - Thế và
Lực: tranh thời, tạo thế, xây dựng và củng cố vững chắc lực lượng. Đó là khoa
học và nghệ thuật trong đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa giành chính quyền và giữ vững
chính quyền.
Các sự kiện trong lịch sử
của Đảng ta từ khi Bác Hồ về nước, hơn 80 năm trước, như Hội nghị Trung ương 8
quyết định chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, thành lập Mặt trận Việt Minh, nêu cao tinh thần đại đoàn kết (ngày
19-5-1941), Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (ngày
22-12-1944), Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 13 - 15-8-1945), Quốc dân Đại hội
tại Tân Trào (ngày 16 - 17-8-1945). Lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc và các thư
từ, lời kêu gọi đồng bào của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập, giải
quyết sáu nhiệm vụ cấp bách ngay sau ngày tuyên bố độc lập... cho đến cải tổ
Chính phủ lâm thời và Chính phủ liên hiệp, soạn thảo Hiến pháp và Tổng tuyển cử
bầu Quốc hội... đã trở thành những
ví dụ kinh điển về trí tuệ, bản lĩnh, mưu lược của Đảng ta và của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trước những bước ngoặt lịch sử.
Bài học quan trọng này cần
được vận dụng và phát triển trong thời điểm hiện nay là tiếp tục đổi mới sáng tạo, đặt lợi ích
quốc gia - dân tộc lên hàng đầu, khơi dậy, phát huy khát vọng Việt Nam, khát
vọng Hồ Chí Minh; vận dụng tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”
trước thời cơ mới, thách thức mới với nỗ
lực hành động mới; nêu cao quyết
tâm, tín tâm và đồng
tâm của toàn Đảng, toàn dân ta để thực hiện khát vọng dân tộc cường thịnh và trường tồn.
- Bài học thứ hai, dựa vào
nhân dân, phát huy cao độ lòng yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
“đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Cách làm tốt nhất là đem tài dân, sức dân
để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Thấm nhuần sâu sắc ý thức dân
tộc và tính chất nhân dân
của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc, nên Đảng phải ra
sức giải phóng sức dân, phát triển sức dân, thường xuyên bồi dưỡng sức dân lại
phải biết “tiết kiệm sức dân” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ có sự
giúp đỡ của nhân dân, trí tuệ sáng suốt của nhân dân mà Đảng nuôi dưỡng và
không ngừng phát triển trí tuệ sáng suốt của mình. Khi đã cầm quyền, Đảng càng
phải gần dân, học dân, hỏi dân, phát huy mọi sáng kiến, sáng tạo của dân, dựa
vào dân để phát huy mọi nguồn lực, xây dựng đội ngũ cán bộ, phát hiện và trọng
dụng nhân tài, bởi con người là vốn quý nhất, nhân tài, hiền tài ở ngay trong
quần chúng. Trong đội ngũ của Đảng, càng có nhiều nhân tài, hiền tài càng tốt;
đó là cơ sở và nguồn lực, tiềm lực làm cho Đảng luôn có trí tuệ sáng suốt.
Bài học này đang tiếp tục
được phát huy trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong thực hành đoàn kết, dân chủ
và trong công tác dân vận, trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng; Đảng phải
gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, không được xa rời nhân dân.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ra mắt Đại hội _Ảnh: TTXVN
- Bài học thứ ba, trí tuệ sáng
suốt bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng không phạm sai lầm khi đưa ra những quyết
định. Nhờ có trí tuệ sáng suốt mà Đảng tránh rơi vào giản đơn, chủ quan, duy ý
chí; thận trọng nhưng kiên quyết, không do dự trước những tình huống đòi hỏi
phải cân nhắc kỹ lưỡng, nhiều mặt. Muốn vậy, phải làm cho Đảng có tiềm lực tư
tưởng, lý luận, làm chủ lý luận, “làm mới” tri thức và phương pháp lý luận để
không rơi vào sự xơ cứng, lạc hậu, tránh rơi vào trì trệ, bảo thủ, ngại đổi mới
do không tự giải phóng mình khỏi những kinh nghiệm, thói quen cũ. Nhiều khi
tình hình mới xuất hiện rất khác lạ, rất mới, đòi hỏi phải có cách giải quyết
mới, có câu trả lời mới rất
khác với những chuẩn tắc cũ, đã quá quen thuộc. Muốn bứt phá, đột
phá, Đảng phải bứt phá, đột phá từ lý luận. Muốn cách mạng phải đổi mới. Muốn
đổi mới phải sáng tạo. Vững tin, tự tin nhưng phải luôn luôn kiểm chứng niềm tin vào chân lý từ thực
tiễn mới.
Bài học này rất thấm thía
với Đảng ta khi phải giải quyết những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, chưa hề có
tiền lệ. Dưới đây là những ví dụ điển hình:
+ Có thể bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa để đi tới chủ nghĩa xã hội được không, nhất là với điểm xuất phát
rất thấp như Việt Nam?
+ Đất nước còn bị chia
cắt, yêu cầu giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, nhất là cách mạng miền
Nam. Vậy nên tập trung chỉ thực hiện một nhiệm vụ chiến lược hay đồng thời tiến
hành cả hai: Cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc để hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam? Tình huống đặt ra: Có thể
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc được không? Khi Mỹ gây chiến tranh phá
hoại, hủy diệt miền Bắc, có thể tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn
cảnh chiến tranh tàn phá ác liệt được hay không?
+ Thống nhất đất nước, đưa
miền Nam cùng với miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội hay để miền Nam “có một
thời gian phục hồi, ổn định”, tập trung phát triển kinh tế đã rồi sẽ quá độ tới
chủ nghĩa xã hội?
+ Đặc biệt là, khi hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã tan rã, Liên Xô - “thành trì” cách mạng thế giới
đã đổ vỡ thể chế, trong nước đang rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, cần
kiên định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?
+ Tiến hành đổi mới với
kinh tế thị trường, chấp nhận phân hóa và cạnh tranh; cùng tồn tại, cùng hợp
tác và cùng cạnh tranh trong mở cửa, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. Có thể
phát triển kinh tế thị trường mà vẫn trung thành với nguyên lý của chủ nghĩa xã
hội khoa học được không? Giữ vững hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa nhưng không để
sự khác biệt ý thức hệ trở thành rào cản trong hợp tác đa phương, đa dạng hóa?
Đảng phải lãnh đạo dân tộc và đất nước xây
dựng chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường, với nhà nước pháp quyền,
chủ động mở cửa, hội nhập, đặt quan hệ với các đảng tư sản cầm quyền chứ không
chỉ với các đảng cộng sản?...
Trước bao nhiêu tình huống
mới lạ như vậy, Đảng ta đưa ra
câu trả lời khẳng định. Những quyết định đúng đắn, sáng suốt, kịp
thời của Đảng là: Kiên định lý
tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Kiên định và giữ
vững nền tảng tư tưởng: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và giữ
vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, không đa nguyên, đa đảng, không “tam
quyền phân lập” trong xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng và phát triển kinh
tế thị trường hiện đại, nhưng là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành tựu của hơn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho những quyết định sáng suốt
đó của Đảng.
Phát hiện ra hệ thống các
mối quan hệ lớn mang tính quy luật của đổi mới, hình thành nhận thức mới với hệ
thống quan điểm, nguyên tắc về chủ
nghĩa xã hội Việt Nam và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là thành quả lý luận quan
trọng của trí tuệ sáng suốt của Đảng ta, đang tiếp tục soi sáng thực tiễn cách
mạng nước ta hiện nay.
Do đó, từ bài học này, Đảng
ta đặc biệt chú trọng vai trò của lý luận, công tác tư tưởng lý luận của Đảng
và ra sức đẩy mạnh thực hành
dân chủ rộng rãi trong Đảng, làm động lực thúc đẩy thực hành dân chủ trong xã
hội, kết hợp thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
cương xã hội(14). Quan hệ này được phát hiện từ trí tuệ của Đảng tại
Đại hội XIII. Đảng muốn nuôi dưỡng trí tuệ sáng suốt thì phải ra sức chú trọng
phát triển và thực hành dân chủ, cả trong Đảng, trong xã hội. Đó là môi trường
xã hội và nguồn dinh dưỡng để phát triển trí tuệ sáng suốt, là con đường tạo
dựng nhân cách trung thực, bản lĩnh vững vàng, phòng tránh tình trạng “giả nhân
cách”, đi liền với “giả đạo đức”, “giả chính trị”, “giả khoa học” và “giả cách
mạng” chỉ vì không nhận thức đúng, không tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan(15).
- Bài học thứ tư, suốt đời rèn
luyện đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không màng danh
lợi, đánh bại chủ nghĩa cá nhân bằng sức mạnh của đạo đức cách mạng theo tấm
gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là bài học cốt tử của Đảng Cộng sản cầm quyền. Trí tuệ
sáng suốt phải có bệ đỡ của đạo đức. Suy thoái, đổ vỡ là do thoái hóa, tha hóa
từ đạo đức, đã làm biến dạng bản chất của Đảng và nhân cách đảng viên. Do đó,
rèn trí tuệ sáng suốt nhất thiết không xa rời yêu cầu về rèn luyện đạo đức. Từ
năm 1949, khi thành lập Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khai tâm, khai trí, khai minh cho mọi cán bộ, đảng viên về việc học:
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, để phụng sự
giai cấp và nhân dân, để phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì
phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”(16). Để vận dụng bài
học này vào hiện tại, phải ra sức nâng cao trí tuệ, lý luận khoa học gắn với ra
sức rèn luyện đạo đức, nhất là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trí phải minh, Đức phải sáng, Tâm phải
trong để có Đức lớn, thực đức, có Tài lớn, thực tài và đem thực
đức, thực tài đó phục vụ Dân, phục vụ Nước, làm tròn sứ mệnh của Đảng. Đảng vì
Dân, Đảng của Dân thì Dân sẽ coi Đảng là Đảng
của mình.
- Bài học thứ năm, để không
ngừng nuôi dưỡng và phát triển trí tuệ sáng suốt của Đảng cầm quyền, Đảng phải
tiêu biểu cho tinh hoa trí tuệ dân tộc và thời đại. Trong Đảng phải đặc biệt
chú trọng nuôi dưỡng các tài năng, các tinh hoa của Đảng, không chỉ là ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp chiến lược, mà tinh hoa trí tuệ của Đảng còn phải hiện hữu qua đội ngũ
chuyên gia tài giỏi, ưu tú của Đảng. Đó là nguồn trữ năng tinh
thần, tạo nên tiềm lực tư tưởng, trí tuệ của Đảng, sản sinh và cung cấp nguồn
trí tuệ sáng suốt cho Đảng, làm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ, thực sự là trí
tuệ, lương tri, danh dự của dân tộc, của thời đại. Có tiên phong về lý luận, có
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được hay không, phần quan trọng là ở đội
ngũ chuyên gia, tinh hoa này của Đảng. Đảng phải có chiến lược đào tạo nhân
tài, đó là điểm nhấn trong chiến lược cán bộ của Đảng. Phải đặc biệt chăm lo
đội ngũ cán bộ các thế hệ
tương lai để trí tuệ, đạo đức của Đảng mãi mãi tỏa sáng trong lòng
dân tộc và ngang tầm thời đại./.
Nguồn:tapchicongsan.org.vn