Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta
Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã có những tổng kết sâu sắc về sự phát triển nhận thức lý
luận của Đảng và thành tựu phát triển đất nước trong 35 năm đổi mới vừa qua;
trong đó, có đánh giá hết sức quan trọng là “Đưa ra quan niệm phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và
sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện
đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của thế giới...Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát
triển của kinh tế thị trường... Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đầy đủ”. Trong bài viết này, chúng tôi muốn góp phần cung cấp những thông
tin, luận cứ để hiểu đúng đắn, đầy đủ tổng kết sâu sắc, quan trọng hết sức cô
đọng này.
1. Công cuộc đổi mới dược thực hiện ở đất
nước ta 35 năm qua đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử để đất
nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay, bắt đầu
từ những đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở cho những đổi mới trong chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngày nay, đổi mới được tiến hành
đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, nhưng đầu tiên, đổi mới được bắt
đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ việc xóa bỏ những nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp, đối lập, phủ nhận kinh tế thị trường, cản trở sự phát
triển đã tồn tại kéo dài nhiều năm, đưa nước ta vào cuộc khủng hoảng kinh tế -
xã hội trầm trọng những năm 80 của thế kỷ trước. Không chỉ ở nước ta, cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp cũng là nguyên nhân sâu xa
đưa Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước kia rơi vào khủng hoảng
kinh tế - xã hội, đi đến sụp đổ. Điều này lại có nguyên nhân bắt nguồn từ những
sai lầm trong nhận thức lý luận cho rằng kinh tế thị trường là đặc trưng riêng
có của chủ nghĩa tư bản, đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ
nghĩa, và cho rằng chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội cao hơn, ưu việt hơn chủ
nghĩa tư bản, do đó, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản hay bỏ qua chủ nghĩa tư bản thì
phải xóa bỏ hay bỏ qua kinh tế thị trường để xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp; kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp là cao hơn, ưu việt
hơn kinh tế thị trường, mới là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Song, chính
đây là nhận thức, quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan về
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho
thấy, khi con người vượt qua giai đoạn săn bắt và hái lượm để sinh tồn, bước
vào giai đoạn trồng trọt và chăn nuôi, tức là có sản xuất, thì có hai động lực
để phát triển, đó là chế độ tư hữu và phân công lao động. Khi có tư hữu và có
phân công lao động thì nảy sinh quan hệ trao đổi, sản phẩm trở thành hàng hóa,
ra đời sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, trong các xã hội mà phần đông người lao
động còn bị lệ thuộc về thân thể vào các ông chủ, các chủ nô hay chúa phong
kiến, chưa được tự do về thân thể, chưa được quyền bán sức lao động của mình,
thì kinh tế hàng hóa chưa có điều kiện phát triển mạnh, kinh tế tự cấp tự túc
còn chiếm tỷ trọng lớn. Tư bản ra đời trong lòng xã hội phong kiến, khi có
những người tự do bán sức lao động cho người có tiền mua về để làm việc cho
mình, sản xuất kinh doanh hàng hóa, làm giàu. Đây là kiểu quan hệ sản xuất tiến
bộ hơn do đó thúc đẩy sự tan rã của quan hệ “phát canh, thu tô” phong kiến đã
lỗi thời. Ra đời trên cơ sở sản xuất hàng hóa, tư bản thúc đẩy sản xuất hàng
hóa phát triển; sản xuất và trao đổi hàng hóa trở thành phổ biến trong xã hội,
làm hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị trường, mỗi
người sản xuất kinh doanh được tự quyết định sản xuất kinh doanh cái gì, bằng
cách nào với chi phí riêng của mình, nhưng khi đưa hàng hóa ra thị trường, giá
cả hàng hóa lại do quan hệ cạnh tran cung – cầu trên thị trường quyết định, làm
cho người sản xuất kinh doanh có thể có lãi nhiều hay lãi ít, thậm chí thua lỗ,
không bù đắp được chi phí đã bỏ ra, có thể trở nên giàu có hoặc bị phá sản.
Điều này đưa đến những hệ quả rất quan trọng: (1) Người sản xuất kinh doanh
phải điều chỉnh hoạt động của mình theo các tín hiệu của thị trường, thị trường
trở thành yếu tố điều tiết các hoạt động kinh tế của xã hội một cách tự động,
nhạy bén, linh hoạt và (2) Cơ chế này tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy người sản
xuất kinh doanh phải năng động, sáng tạo, không ngừng vươn lên, không ngừng đổi
mới để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, do đó, một cách khách quan, thúc đẩy
xã hội phát triển. Đây là vai trò tích cực, là sứ mệnh lịch sử của kinh tế thị
trường. Từ kinh tế tự nhiên, sản xuất tự cấp tự túc phát triển thành sản xuất
hàng hóa, từ sản xuất hàng hóa trở thành kinh tế thị trường là những quá trình
phát triển khách quan, tất yếu, theo hướng tiến bộ của xã hội loài người, là sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tư bản là một kiểu quan hệ sản xuất, là quan
hệ giữa những người bán sức lao động của mình, đi làm thuê và những người có
tiền, mua sức lao động sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh để làm
giàu. Chủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội mà ở đó quan hệ sản xuất tư bản là
quan hệ phổ biến, chi phối trong xã hội. Sự ra đời, phát triển của tư bản, của
chế độ tư bản là một tất yếu khách quan trong lịch sử phát triển của nhân loại,
là một tiến bộ xã hội so với các xã hội trước chế độ tư bản; vai trò tích cực
của nó là tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế, thúc đẩy xã hội phát triển. Tư bản
ra đời trên cơ sở sản xuất hàng hóa, lấy quan hệ hàng hóa - tiền tệ lam cơ sở
cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình; đồng thời, thúc đẩy quan hệ sản
xuất hàng hóa phát triển, trở thành kinh tế thị trường; nhưng tư bản, những
quan hệ sản xuất của tư bản và các quan hệ của sản xuất hàng hóa, của kinh tế
thị trường không phải là một. Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở chế độ tư hữu
và phân công lao động xã hội; tư bản ra đời trên cơ sở có những người cần bán
sức lao động và những người có tiền cần mua sức lao động để sản xuất kinh
doanh, làm giàu. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ là quan hệ giữa những người sản
xuất độc lập, bình đẳng. Tư bản là quan hệ không bình đẳng giữa người bán sức
lao động và người đã bỏ tiền ra mua anh ta, giữa người làm thuê và người chủ
của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, không thể đồng nhất, mặc nhiên cho
rằng kinh tế thị trường là kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất tư bản chủ
nghĩa là yếu tố vốn có, bản chất của kinh tế thị trường. Sự phát triển của kinh
tế thị trường ở các nước tư bản trong hơn 300 năm qua là minh chứng cho thấy rõ
điều này.
Kinh tế thị trường ở các nước tư bản đương
nhiên là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, bởi ở đây, tư bản là lực
lượng chi phối, thống trị. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển hơn 300 năm qua
của nền kinh tế thị trường tư bản, nhiều thay đổi đã diễn ra, đã xuất hiện
nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau, vẫn là kinh tế thị trường những tính
chất tư bản chủ nghĩa của nó đã có những thay đổi. Nền kinh tế thị trường ban
đầu là kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, rất ít có sự can thiệp của nhà
nước. Nền kinh tế này, một mặt, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế; nhưng mặt khác, liên tục gây ra các cuộc khủng hoảng chu kỳ,
sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc trong xã hội, tạo ra những xung đột xã hội và
dẫn tới ra đời các tổ chức độc quyền, cản trở sự phát triển. Những điều này đòi
hỏi phải có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước để khắc phục, hạn chế những
tác động tiêu cực này, duy trì sự ổn định để phát triển. Sau cuộc đại khủng
hoảng kinh tế 1929-1933 trong thế giới tư bản, học thuyết kinh tế thị trường
cần phải có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước được thừa nhận, có ảnh hưởng
và được thực hiện rộng rãi. Nền kinh tế ở tất cả các nước tư bản phát triển cho
đến nay đều là những nền kinh tế thị trường có quản lý của nhà nước. Do nhà
nước ở các nước này vẫn do các tập đoàn tư bản chi phối, bảo vệ lợi ích của tư
bản, nên tuy có làm giảm được tác động tiêu cực của các cuộc khủng hoảng, phân
hóa, xung đột xã hội, tạo môi trường cho kinh tế tiếp tục phát triển, nhưng
không thể ngăn ngừa, khắc phục triệt để được những hiện tượng này mà những hiện
tượng này vẫn diễn ra ở những hình thức khác nhau, mức độ khác nhau.
Ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại,
nhất là ở các nước tư bản phát triển, còn xuất hiện nhiều hiện tượng mới có tác
động tới tính chất tư bản chủ nghĩa của kinh tế thị trường. Đó là sự phát triển
ngày càng mạnh mẽ, phổ biến của các công ty cổ phần. Các tập đoàn kinh tế, các
công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đầu tư, hoạt động ở nhiều nước, trên quy mô
toàn cầu, công ty cổ phẩn trở thành hình thức tổ chức phù hợp, đáp ứng được yêu
cầu. Trong các công ty cổ phẩn, ngoài các thành viên sáng lập, một số thành
viên nắm giữ số cổ phần lớn, nắm vai trò quản lý công ty, còn có đông đảo cổ
đông phân tán, trong đó có cả những người lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, khi
xuất hiện những công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới, Các Mác đã đánh giá đây
là bước tiến, một sự phủ định đối với tư bản tư nhân, dù rằng vẫn trong khuôn
khổ chế độ tư bản, chưa làm thay đổi được bản chất tư bản của các quan hệ kinh
tế. Thứ hai là, ở các nước tư bản phát triển, trong bối cảnh trình độ dân trí,
nhận thức chính trị, xã hội của nhân dân ngày càng cao, các đảng chính trị lớn,
mặc dù vẫn bị chi phối bởi tầng lớp giàu có, bởi các tập đoàn tư bản, nhưng rất
cần phải có được sự ủng hộ của nhân dân trong các cuộc bầu cử để trở thành đảng
cầm quyền, do đó, phải có sự quan tâm nhất định đến nguyện vọng, lợi ích của
nhân dân. Nhà nước ở các nước tư bản phát triển, theo đó, cũng ngày càng quan
tâm, chú ý nhiều hơn đến lĩnh vực xã hội, tới việc làm, tiền lương tối thiệu,
điều kiện làm việc của người lao động, tới chăm sóc sức khỏe nhân dân, an sinh
xã hội, phúc lợi xã hội, những người yếu thế, có hoàn cảnh khó khăn... Tùy theo
mức độ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường, nội dung và cách thức
can thiệp của nhà nước mà hình thành nên những nền kinh tế thị trường khác nhau
(hay mô hình khác nhau của kinh tế thị trường) trong các nước tư bản phát
triển, như: kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp của nhà nước vào
kinh tế thị trường có giới hạn (mô hình kinh tế thị trường của Mỹ, Anh); kinh
tế thị trường xã hội, nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường tạo sự cân
bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, tạo công bằng xã hội (mô
hình kinh tế thị trường Đức); kinh tế thị trường phúc lợi, nhà
nước quan tâm xây dựng, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội cho người lao động
(mô hình kinh tế thị trường ở các nước Bắc Âu); kinh tế thị trường nhà
nước phát triển, nhấn mạnh vai trò kiến tạo, thúc đẩy phát triển
của nhà nước (mô hình kinh tế thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc). Đã có nhiều phân
tích, đánh giá, có những ý kiến khác nhau về các mô hình kinh tế thị trường
này, nhưng đều cho rằng đó là những điều chỉnh, thích ứng của nhà nước tư bản,
của chế độ tư bản để tồn tại, phát triển trong bối cảnh mới của thời đại, dù
chưa làm thay đổi được bản chất của xã hội tư bản, nhưng là những xu hướng tiến
bộ. Có phân tích cho rằng trong các xu hướng tiến bộ này có mầm mống của các
nhân tố xã hội chủ nghĩa đã hình thành trong lòng xã hội tư bản, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thật sự là xu hướng chung của thời đại.
Từ thực tiễn diễn ra trên thế giới và những
phân tích nêu trên, có cơ sở khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một mô hình kinh tế thị trường mới sáng tạo, xuất phát từ thực
tiễn Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới, phù hợp trong
thời đại ngày nay.

2. Phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới toàn
diện đất nước của Đảng được thực hiện 35 năm qua và cũng là một trong những yếu
tố quan trọng nhất đóng góp vào những thành tựu đạt được của đất nước. Tuy
nhiên, không phải ngay khi thực hiện đường lối đổi mới, ở Đại hội VI của Đảng
(1986), Đảng đã có nhận thức ngay về phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, mà phải qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn, đến Đại hội IX (2001), Văn kiện Đại hội mới khẳng định nền kinh tế mà
nước ta xây dựng, phát triển là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa. Từ Đại hội IX của Đảng đến
nay, nhận thức, quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện rõ và đầy đủ hơn, cả về cơ cấu và
cơ chế vận hành, cả ở các cấp vĩ mô và vi mô, quản lý nhà nước và hoạt động của
doanh nghiệp, để phát huy được mặt tích cực và ngăn ngừa, khắc phục những
khuyết tật của kinh tế thị trường tốt hơn những gì mà các nước tư bản đã làm,
để đất nước ta phát triển nhanh bền vững theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đến nay, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội ở nước ta được xác định là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội
nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu: toàn dân (nhà nước, tập
thể, tư nhân và nước ngoài) nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Quyền sở hữu, quyền
tài sản, thu nhập hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước) đều động theo cơ chế thị
trường, bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh với nhau theo pháp luật. Kinh tế nhà
nước (bao gồm các nguồn lực kinh tế của nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước)
được xác định có vai trò chủ đạo với ý nghĩa là công cụ (cùng với luật pháp,
chính sách) để nhà nước điều tiết, thúc đẩy, định hướng phát triển của nền kinh
tế, không phải là chèn ép, lấn át các thành phần kinh tế khác. Kinh tế tập thể,
hình thành trên cơ sở liên kết tự nguyện của những người, những cơ sở kinh tế
sản xuất kinh doanh nhỏ, để hỗ trợ họ hoạt động, phát triển, có thêm sức mạnh
khi tham gia thị trường có các chủ thể kinh tế lớn. Kinh tế tư nhân được xác
định là một động lực quan trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển ở
các ngành, lĩnh vực có lợi cho quốc tế, dân sinh, trở thành những tập đoàn kinh
tế lớn, đầu tư cả trong và ngoài nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một
bộ phận quan trọng của nền kinh tế được khuyến khích đầu tư vào những ngành,
lĩnh vực, những dự án có trình độ công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, có
chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp trong nước
tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý cua nhà nước và sự
tham gia của các tổ chức xã hội, của nhân dân. Thị trường, với sự vận hành đầy
đủ, đồng bộ của các quy luật của kinh tế thị trường, đóng vai trò quyết định
trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu
quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông, điều tiết hoạt động của
doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Nhà nước có vai trò là ban
hành luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn,
định mức, những quy trình, xây dựng và hoàn thiện thể chế, và kiểm tra, thanh
tra, giám sát việc thực hiện những quy định đã ban hành; đồng thời, sử dụng
các lực lượng kinh tế của nhà nước để điều tiết, định hướng hoạt động,
phát triển của nền kinh tế. Các tổ chức xã hội giám sát hoạt động của các cơ
quan, cán bộ công chức nhà nước, giám sát hoạt động của doanh nghiệp, của thị
trường; đồng thời phản ánh với nhà nước nguyện vọng của các thành viên hội
viên, các tác động, ảnh hưởng việc xây dựng luật pháp, chính sách của nhà nước
và vận động thành viên, hội viên thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh và
tiêu dùng của họ, có tác động, ảnh hưởng tới thị trường qua đó, ảnh hưởng tới
nền kinh tế. Quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là phân phối theo kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa phân
phối theo lao động, vừa theo mức đóng góp vốn và các yếu tố sản xuất khác, đồng
thời phân phối thông qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Với cơ cấu, cơ chế vận hành, cơ chế phân phối
như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta là nền kinh
tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế phù hợp với thông lệ, tiêu chí chung
trên thế giới ngày nay, kế thừa những thành tựu phát triển của kinh tế thị
trường thế giới hơn 300 năm qua; đồng thời, có những đặc thù, tính chất riêng,
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn của đất nước, tạo nên
và bảo đảm định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội của nền kinh tế. Đây
thực sự là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế
thị trường. Nền kinh tế này không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, các yếu tố vốn mang tính chất tư bản chủ nghĩa được quản lý, điều tiết,
chuyển hóa, nhưng cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy
đủ, các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã, đang hình thành, phát triển; nền kinh tế
đang định hướng, quá độ, từng bước đi tới chủ nghĩa xã hội.
Yếu tố đặc thù tạo nên tính chất riêng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường
hiện đại, hội nhập quốc tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường nhưng có sự
quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của
nền kinh tế, thị trường điều tiết sản xuất và lưu thông. Song, kinh tế tư nhân
và thị trường đều phải tuân thủ luật pháp, chính sách của nhà nước, hướng tới
và đóng góp vào thực hiện những mục tiêu do luật pháp, chính sách đề ra. Kinh
tế tư nhân được khuyến khích phát triển thành những tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt
động cả ở trong nước và nước ngoài, nhưng cũng được khuyến khích phát triển
thành các công ty cổ phần, có sự tham gia rộng rãi của người lao động, tích cực
tham gia, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường. Quan hệ phân
phối vừa được thực hiện theo mức đóng góp vốn và các yếu tố sản xuất, nhưng
đồng thời vừa được thực hiện theo lao động và thông qua an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội. Sự quan tâm đến lĩnh vực xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam được đặt
ra mạnh hơn, cao hơn, đầy đủ hơn so với các nền kinh tế thị trường xã hội và
kinh tế thị trường phúc lợi của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đòi hỏi phải gắn kết chặt chẽ phát
triển kinh tế với phát triển xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính
sách xã hội, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển, phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước trong từng thời kỳ. Các vấn đề xã hội, những vấn đề liên
quan đến quyền làm chủ của nhân dân, đời sống vật chất; tinh thần của nhân dân
ở nước ta phải được quan tâm hơn, được giải quyết tốt hơn, đạt chỉ số cao hơn
nước có trình độ phát triển kinh tế, có thu nhập bình quân đầu người như nước
ta. Vai trò kiến tạo phát triển của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng lớn hơn, mạnh mẽ hơn so với vai trò của
nhà nước trong mô hình kinh tế thị trường nhà nước phát triển ở các nước tư bản
hiện đại. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước
vừa ban hành luật pháp, chính sách, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
đồng thời, còn có khu vực kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan
trọng để quản lý, điều tiết, định hướng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, gắn
kết mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Đây
là một yếu tố quan trọng để những nước đi sau đẩy nhanh sự phát triển, thu hẹp
khoảng cách và đuổi kịp các nước đã phát triển đã đi trước.
Dù còn nhiều vấn đề còn cần tiếp tục làm rõ,
nhưng có thể khẳng định rằng: thời đại ngày nay đã tạo ra khả năng, cơ hội cho
một nước chưa phát triển qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, chưa phát triển kinh
tế thị trường, có thể phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa để quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử kinh tế thị trường, là
một đột phá cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, xuất phất từ thực tiễn Việt Nam và
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Nguồn:hdll.vn