Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội: Vững tin đường phía trước
Trên
cơ sở lý luận và từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng vừa có bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam."
Bài
viết khái quát cao về nhận thức Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ thực tiễn Đổi
mới của Việt Nam và từ những thành công của thế giới, kể cả những thất bại để
khái quát và tìm ra được đường đi riêng, mô hình riêng cho Việt Nam.
Để
cụ thể hóa hơn về các kết quả đạt được trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, TTXVN giới thiệu chùm bài cung cấp các góc nhìn về thành tựu kinh
tế đạt được trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam qua thực tiễn 35 năm Đổi mới.
BÀI 1: ĐƯỜNG ĐÃ CHỌN LÀ CON ĐƯỜNG TẤT YẾU!
Trong
suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng
định: Chủ nghĩa xã hội (Chủ nghĩa xã hội) là mục tiêu, lý tưởng
của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu
khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Những
thành tựu kinh tế xã hội trong thực tiễn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho việc
giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng người
dân, đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt
Nam, cũng như đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta lựa chọn là tất yếu và đúng đắn.
Không ai bị bỏ lại phía sau
Công
cuộc Đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn cho đất nước trong 35
năm qua.
Trong
bài viết: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa
ra những nhận thức rất mới, sâu sắc về mặt lý luận, tổng kết thực tiễn đối với
Chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Làng chài trên lòng hồ thủy
điện Sê San (xã Ia Tơi, huyện Ia H’Drai, tỉnh Kon Tum). (Ảnh: Khoa
Chương/TTXVN)
Theo
đó, Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải là vì con người, vì cuộc sống của
nhân dân chứ không phải vì lợi nhuận của một nhóm người nào. Tổng Bí thư cũng
nhấn mạnh Chủ nghĩa xã hội Việt Nam là xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa
tăng trưởng, phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo an sinh
xã hội, đó là lợi ích của nhân dân.
Đánh
giá về quá trình này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định
“xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống
tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây.”
Rõ
ràng “phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả
tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so
với các nước tư bản có cùng mức phát triển kinh tế.”
Thực
tiễn 35 năm Đổi mới ở Việt Nam cho thấy, đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan
trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế
thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách
kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá
trình phát triển.
Điều
đó có nghĩa là Việt Nam không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển
cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy
sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn
thuần.
Trái
lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi
chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến
khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc
những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn.
Đây
là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bài
viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định phát triển kinh tế đã giúp đất
nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội những năm 80 và cải thiện
đáng kể đời sống của nhân dân.
Tỷ
lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993
xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo
chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước).
Đến
nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có
đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ
sở, trạm y tế và điện thoại.
Trong
khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các
cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào
năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học,
cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua.
Hiện
nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện
được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập
trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các
đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.
Nhiều
dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Hiện Việt Nam có
khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát
triển công nghệ tin học cao nhất thế giới.
Liên
hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện
thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao
của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Đánh
giá của Tổng Bí thư khi nói về những thành tựu của thực tiễn 35 năm Đổi mới đã minh chứng cho việc
giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng người
dân, vì nó đã “… đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực
ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói
giảm nhanh liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được
giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm…; thế
và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng được củng cố.”
Xét
trên nhiều phương diện, có thể thấy, “người dân Việt Nam ngày càng có điều kiện
sống tốt hơn so với bất kỳ thời kỳ nào trước đây.” Trong đại dịch COVID-19,
những thành công đạt được trong việc hỗ trợ người dân chăm lo sức khỏe, phát
triển kinh tế, ổn định đời sống đã minh chứng ở Việt Nam “không ai bị bỏ lại
phía sau.”
Việt
Nam không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được nhiều vấn đề xã hội
tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.
Tổng
Bí thư xác định: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là
thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên
phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và
công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình
đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau,
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công,
'cá lớn nuốt cá bé' vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe
nhóm"; "xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến
bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi
ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để
chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm"; "Con người
giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”…
Phó
Giáo sư, Tiến sỹ Hồ Trọng Hoài, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách xã hội (Chủ
nghĩa xã hội) khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho
rằng, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người dân
được quan tâm; các nhóm xã hội yếu thế, người nghèo được quan tâm chăm sóc; sự
phân hóa xã hội được kiềm chế, sự tước đoạt tự nhiên được giảm thiểu.
Đây
là một mô hình, cách thức tổ chức kinh tế rất sáng tạo, mới mẻ, là kết quả quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Đây
chính là sự cụ thể hóa Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 (Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội), Nghị quyết các kỳ Đại
hội; thể hiện rõ tính nhân văn của Chủ nghĩa xã hội; là những giá trị đích thực
của chủ nghĩa xã hội; là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi, dù thế
giới có đổi thay.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử
Đảng, tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội đã được Tổng Bí thư chỉ ra là
một xã hội của dân, do dân và vì dân, Đảng ta không có 1 lợi ích gì cả ngoài
lợi ích phục vụ nhân dân. Và Đảng mong muốn nhân dân vào cuộc với Đảng, dân biết,
dân làm, dân bàn, dân kiểm tra.
Mặc
dù, vẫn còn những hạn chế, thách thức trong giải quyết hài hòa lợi ích quốc gia
với lợi ích chính đáng của từng cá nhân, nhưng với những kết quả đạt được trên
thực tế trong những năm qua ở Việt Nam, chúng ta hoàn toàn tin tưởng chế độ xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội hướng tới các
giá trị đích thực vì con người.
Dấu ấn hoàn thiện thể chế
Qua
các giai đoạn phát triển của đất nước, nhất là qua công cuộc Đổi mới, đánh dấu
vai trò lãnh đạo của Đảng, ghi nhận những sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong
hoàn thiện thể chế và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Tàu đánh bắt hải sản neo
đậu tại cửa biển Nhà Mát, Bạc Liêu. (Ảnh: Chanh Đa/TTXVN)
Nhắc
đến vai trò lãnh đạo của Đảng, không thể không nhắc đến sự lãnh đạo linh hoạt
trong mỗi giai đoạn, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Đảng cũng thẳng thẳn thừa
nhận những sai lầm vấp phải và áp dụng linh hoạt, sáng tạo các đường lối, chính
sách phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Dũng
cảm nhận ra sự thật của những vấp váp của việc thực hiện mô hình kinh tế kế
hoạch tập trung trước năm 1986, Đảng đã thừa nhận và khắc phục những khuyết
điểm ấy. Đảng và Nhà nước tập trung triệt để đổi mới cơ chế quản lý và các
chính sách kinh tế.
Điểm
căn bản là chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hành chính, bao
cấp, kinh tế hiện vật, khép kín sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Có
thể nói, đó là bước khởi đầu quan trọng trong việc chuyển đổi tư duy kinh tế
của Đảng sang hướng xây dựng, phát triển kinh tế thị trường. Việc xem đổi mới,
trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, qua thực tiễn cho thấy
đây là cách tiếp cận chính xác-khoa học của Đảng ta, là khâu đột phá về nhận
thức luận, phương pháp luận của chủ thể lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Nắm
vững phép biện chứng duy vật, biết kế thừa những thành tựu của nhân loại trong
tiến trình phát triển, biết sử dụng những hình thức trung gian quá độ để tìm ra
những hình thức, bước đi phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa của
dân tộc mình, Đảng đã tạo lập và hoàn thiện dần mô hình phát triển mới; đồng
thời tìm được những phương thức huy động các nguồn lực để từng bước hiện thực
hóa mô hình đó.
Theo
tinh thần đó, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, để làm tròn vai
trò nhân tố lãnh đạo, đòi hỏi Đảng phải giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan
đến việc xác lập một mô hình phát triển và triển khai có hiệu lực, hiệu quả mô
hình trong thực tiễn.
Đảng
coi nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm và đã thành công trong lãnh đạo
kinh tế. Đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội (1996), nền kinh tế
phát triển vững chắc vượt qua tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài
chính-tiền tệ của khu vực (1997-2000), hạn chế thấp nhất ảnh hưởng xấu của
khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008…
Có
thể nói, hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa luôn được Ðảng ta quan tâm đặc biệt. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng
tháng 4/2001, Ðảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta và kể từ đó đến nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đặt ra cấp bách trong các Ðại hội
X, XI, XII, XIII của Ðảng.
Theo
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng
và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát
triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng
cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội.
Sự
linh hoạt và sáng tạo trong các đường lối lãnh đạo của Đảng không chỉ thể hiện
ở các đường lối vĩ mô, mà ở mỗi giai đoạn, mỗi một tình huống cụ thể.
Cụ
thể hơn, trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của dịch
COVID-19, Đảng cũng đã tích cực chủ động chỉ đạo sát sao để ngăn chặn dịch
bệnh. Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo các cấp, các ngành nắm chắc tình hình, diễn
biến, kịp thời có những giải pháp hiệu quả phòng, chống dịch bệnh. Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều văn
bản chỉ đạo, huy động sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, sự tham gia của
toàn dân.
Đảng
cũng chỉ đạo việc xây dựng các kịch bản phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với
tình hình dịch bệnh; có kế hoạch tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, kinh
doanh, đặc biệt là các ngành bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã
hội, chăm lo đời sống của nhân dân. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt "chống
dịch như chống giặc", kiên định thực hiện mục tiêu kép phòng, chống dịch
hiệu quả đồng thời phát triển kinh tế, chăm lo đời sống, bảo vệ sức khoẻ nhân
dân, đã huy động được sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Đến
nay, dịch bệnh tuy còn diễn biến phức tạp nhưng cơ bản được kiểm soát, Việt Nam
được đánh giá là một trong các quốc gia phòng, chống dịch hiệu quả trên thế
giới. Kinh tế-xã hội tiếp tục đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội được bảo
đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại tiếp tục được tăng cường.
Đó là minh chứng cụ thể cho thấy sự lãnh đạo sát sao, linh hoạt trong mọi tình
huống để đạt kết quả cao nhất.
Những
thành công trên là những minh chứng cho sự đúng đắn và sáng tạo trong đường lối
lãnh đạo của Đảng. Như tinh thần của Tổng Bí thư trong bài viết: “Với tất cả sự
khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản
phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền
bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta…”
Kiên định và không thay đổi
Cho
đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Cả
lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một
kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng khẳng định Đảng ta nhận thức rằng hiện nay Việt Nam đang
trong quá trình xây dựng, quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư cho
rằng, “…đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự
nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên
cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của
Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực
của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường
lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình.
Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.”
Phát
triển kinh tế tri thức, tận dụng thành quả của cuộc cách mạng Công nghiệp
lần thứ tư; đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, đầu tư hoàn
thiện hạ tầng… Đó là những giải pháp mà Tổng Bí thư cũng đã chỉ
ra để Việt Nam có thể hoàn thiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong bối cảnh hiện nay, chỉ có như vậy mới có thể đưa đất nước phát
triển, đi lên, không có sự lựa chọn khác.
Đi
lên Chủ nghĩa xã hội là khát vọng của Nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử. Với những thành tựu to lớn và quan trọng sau 35 năm Đổi mới,
con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được xác định rõ
hơn, góp phần khẳng định tính hiện thực của chân lý độc lập dân tộc gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay./.
Nguồn:Thông tấn xã Việt Nam (ngày 20/6/2021)