Cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra
Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là một trong những nguyên tắc cơ bản về tổ chức
và hoạt động của Đảng; được xem là nguyên tắc căn bản chi phối các nguyên tắc
khác. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần thực hiện tốt nguyên tắc này và đó là điều
kiện để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
các nhiệm vụ chính trị.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ
vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta,
luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và coi đó là nguyên tắc số một về
tổ chức và hoạt động của một Đảng Cộng sản. Điều lệ của Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đều khẳng định và chỉ rõ những nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
hoạt động của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng 92 năm qua, Đảng ta luôn
xác định tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011) nhấn mạnh: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ,
thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”(1).

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước và các đại biểu dự Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XIII_Ảnh: TTXVN
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tập
trung dân chủ chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Việc
thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong Đảng thống nhất
với thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước và trở thành
một phong cách làm việc cần thiết của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hiện nay, việc
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và phong cách làm việc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng. Thực chất, việc cụ thể hóa nguyên tắc này là xử lý hài hòa mối quan
hệ giữa cấp ủy, tập thể lãnh đạo và mỗi thành viên, mà quan trọng nhất là đối
với vị trí, vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Vì sao cần
phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều
kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt
của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì
thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó... Vì sao cần
phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế
hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc một nhóm ít người
phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc
mới chạy”(2). Trong hoạt động lãnh
đạo, một
mặt, nếu tập thể lãnh đạo cùng tham gia, đóng góp ý kiến, thảo
luận, bàn bạc thấu đáo, kỹ lưỡng, thì quyết định lãnh đạo, chủ trương, chính sách
mới sẽ bảo đảm được tính khách quan, chính xác hơn, khắc phục được tình trạng
chủ quan, duy ý chí; mặt khác, khi tập thể đã
thảo luận một cách dân chủ, kỹ lưỡng và có quyết định chính xác, đúng đắn về
chủ trương, thì không thể hô hào chung chung, mà tất cả mọi người phải cùng
thực hiện, phải phân công, giao nhiệm vụ cho từng thành viên phụ trách trong
từng lĩnh vực, từng công việc cụ thể. Chỉ có như vậy, hoạt động của cơ quan,
đơn vị sẽ vừa phát huy được dân chủ, tập hợp trí tuệ của các thành viên và nâng
cao vai trò lãnh đạo của tập thể, vừa đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân,
phát huy được năng lực, sở trường và tính chủ động, sáng tạo của mỗi thành viên
khi được phân công phụ trách, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu.
“Tập thể lãnh đạo” và “cá nhân phụ trách” có mối
quan hệ gắn bó mật thiết, biện chứng với nhau, là hai mặt thống nhất trong một
chỉnh thể không thể tách rời. Khi một tập thể lãnh đạo gương mẫu, thực sự đoàn
kết, thống nhất ý chí và hành động, tất cả vì lợi chung của Đảng, luôn đặt lợi
ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết, chấp hành nghiêm chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, sẽ tạo được môi
trường thuận lợi cho mỗi thành viên lãnh đạo rèn luyện, phấn đấu, phát huy hết
phẩm chất, năng lực, sở trường để đóng góp cho sự nghiệp chung. Bên cạnh đó,
khi mỗi thành viên cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, thực sự tiền phong gương mẫu,
luôn năng động, sáng tạo, dám đổi mới, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đương
đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, sẽ
làm tăng thêm vai trò, sức mạnh và năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tập thể lãnh
đạo cơ quan, đơn vị. Trong mối quan hệ giữa “tập thể lãnh đạo” và “cá nhân phụ
trách”, thì mối quan hệ giữa cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và người đứng đầu
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy, tập thể
lãnh đạo và vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị của cơ quan, đơn vị. Khi tập thể lãnh đạo thực sự đoàn kết, thống
nhất, gương mẫu, giữ vững nguyên tắc tổ chức và các quy định của Đảng, tất cả
vì lợi ích của nhân dân, các thành viên ban lãnh đạo đều đề cao tinh thần trách
nhiệm, thẳng thắn đấu tranh với quan điểm và hành vi sai trái..., sẽ làm tăng
thêm vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, trở thành chỗ dựa vững chắc để
người đứng đầu quyết đoán, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành công việc theo
chức trách, nhiệm vụ được giao; đồng thời, sẽ ngăn ngừa, hạn chế được những
biểu hiện chủ quan, duy ý chí và hành vi vi phạm nguyên tắc của người đứng đầu.
Điều đó là bởi, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền chỉ là một thành viên trong
cấp ủy, tập thể lãnh đạo, nhưng có vị trí rất quan trọng, đóng vai trò “thủ
lĩnh”, định hướng, dẫn dắt cả tập thể trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính
trị và sự phát triển của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính kiểm
tra, động viên kỹ sư, công nhân đang thi công hầm Núi Vung thuộc thành phần dự
án cao tốc đoạn Cam Lâm - Vĩnh Hảo_Ảnh: TTXVN
Thực tiễn cũng chỉ ra rằng,
nếu người đứng đầu có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gương
mẫu về mọi mặt, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà
nước trong thực hiện nhiệm vụ, sẽ góp phần xây dựng tập thể lãnh đạo đoàn kết,
thống nhất, trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng, đưa địa phương, cơ quan, đơn vị vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn
thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Ngược lại, nơi nào và lúc nào người đứng
đầu thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không gương mẫu, chấp hành không nghiêm chủ
trương, đường lối, các nguyên tắc, quy định của Đảng, có tư tưởng vụ lợi, cá
nhân chủ nghĩa..., thì sẽ dẫn đến thiếu đoàn kết, thống nhất trong nội bộ lãnh
đạo; nhiệm vụ chính trị không được hoàn thành, trong cơ quan, đơn vị thường xảy
ra tiêu cực, thậm chí tham nhũng, lãng phí, vi phạm Điều lệ Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; không những gây thiệt hại về kinh tế, mà còn làm tổn
thất, mất mát về cán bộ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước...
Thực trạng
việc cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh đạo
thực hiện các nhiệm vụ chính trị
Thực tiễn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong những năm qua cho thấy, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở
đã có nhiều cố gắng trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; xác định chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm và thẩm quyền của cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và của mỗi cá
nhân, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để thực hiện. Tuy
nhiên, bên cạnh những ưu điểm và kết quả bước đầu đạt được, việc cụ thể hóa
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhất là việc
xác định trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với tập thể cấp ủy,
ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị vẫn chưa thật rõ ràng và còn những hạn chế, bất
cập. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn
định và phát triển của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; có vai trò “là thủ
lĩnh”, là “đầu tàu” để dẫn dắt, truyền cảm hứng và lôi cuốn đối với tập thể cấp
ủy, lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhưng người đứng đầu cũng chỉ là một
thành viên dự họp và khi biểu quyết cũng chỉ có một phiếu như các thành viên
khác.
Trong thực tế, cũng có không ít cấp ủy, tổ chức
đảng, chính quyền, đơn vị hành chính chưa thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Một mặt, một số cán bộ lãnh
đạo, quản lý và người đứng đầu thiếu gương mẫu, uy tín thấp, phẩm chất, năng
lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, quan
liêu, xa dân, độc đoán, chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, nhưng không được tập thể theo dõi, giám
sát, giúp đỡ kịp thời, dẫn đến vi phạm nguyên tắc tổ chức và các quy định của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước. Mặt khác, cũng do chưa cụ
thể hóa và phân định thật rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu nên còn
có sự lúng túng giữa thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở nhiều nơi. Cũng có nơi đã xảy ra
sai phạm do nhầm lẫn giữa thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy (thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định theo đa số) với
người đứng đầu cơ quan, đơn vị (thực hiện nguyên tắc thủ trưởng quyết
định và chịu trách nhiệm về quyết định đó), nhất là đối với
những đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Vì thế,
nhiều nơi có biểu hiện là, khi địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị có ưu điểm,
thành tích thì ai cũng thấy có công lao, thành tích của mình đóng góp ở trong
đó; nhưng khi có sai lầm, khuyết điểm, thậm chí để xảy ra sai phạm, thì không
xác định được trách nhiệm của tập thể và cá nhân đến đâu, nhất là của người
đứng đầu; và cuối cùng là đổ cho nguyên nhân khách quan và lỗi chung của tập
thể, mà không có cá nhân nào chịu trách nhiệm.
Cũng không ít nơi còn biểu hiện dân chủ xuôi
chiều, dân chủ hình thức, ý kiến phát biểu của các thành viên lãnh đạo chủ yếu
dựa theo ý kiến của người đứng đầu, theo kiểu “gió chiều nào che chiều ấy”. Đây
thực chất là thông qua cơ chế dân chủ của tập thể để hợp thức hóa ý chí áp đặt
và sự chỉ đạo của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị. Vì vậy,
trong công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, đã xảy ra không ít trường hợp là, mặc
dù thực hiện “đúng quy trình” nhưng vẫn không lựa chọn được đúng người, đúng
việc, trong khi đó có một số trường hợp được bổ nhiệm “thần tốc” lại là con,
em, người thân của cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, nên đã gây bức xúc
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực trạng trên có cả nguyên nhân chủ quan
và khách quan, trong đó có nguyên nhân chủ quan là việc cụ thể hóa nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và việc phân định chưa
thật rõ ràng trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với tập thể cấp
ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân trong
tập thể.
Nâng cao
hiệu quả việc cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và bất
cập nêu trên, trong những năm gần đây, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của
Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy
định, quy chế, quy trình, hướng dẫn... nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; xác định rõ chức trách, nhiệm vụ,
thẩm quyền của tập thể và cá nhân; quy định cụ thể những việc, những vấn đề
phải đưa ra tập thể thảo luận, quyết định và chịu trách nhiệm; những việc cá
nhân, trong đó có người đứng đầu, được đề xuất hoặc quyết định và chịu trách
nhiệm về đề xuất, quyết định của mình, làm cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát và
kiểm soát quyền lực của tập thể và cá nhân từ Trung ương đến địa phương, cơ sở.
Cụ thể là:
Thứ nhất, sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, tại hội nghị trung ương lần thứ hai,
Ban Chấp hành Trung ương đều bổ sung, sửa đổi và ban hành Quy chế làm việc của
Trung ương; trong đó, quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và thẩm quyền,
trách nhiệm của Tổng Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương... Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng bổ sung, sửa đổi và
ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự
đảng Chính phủ, các đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương và ban hành quy chế
làm việc mẫu của đảng đoàn, ban cán sự đảng trực thuộc Trung ương để thực hiện.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long kiểm
tra công tác phòng, chống dịch COVID-19 tại khu vực Cửa khẩu quốc tế Hà Tiên_Ảnh:
TTXVN
Thứ hai, Bộ Chính
trị khóa XII đã ban hành Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19-12-2017, “Về phân cấp
quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử”, nhằm xác định rõ nguyên
tắc, đối tượng, nội dung công tác cán bộ và quy trình thực hiện việc bổ nhiệm,
giới thiệu cán bộ ứng cử theo quy trình 5 bước và quy định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của từng cấp; chỉ rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và của
mỗi thành viên trong tập thể lãnh đạo đó, nhất là thẩm quyền của người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền và trách nhiệm của tập thể, cá nhân khi để xảy ra sai phạm.
Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2018, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”, quy định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi thành viên
trong tập thể đó; thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và các cá nhân
trong việc tham mưu, đề xuất về công tác cán bộ; quy định rõ những việc tập thể
và cá nhân có thẩm quyền trong công tác cán bộ phải làm và những việc không
được làm; việc xử lý đối với tập thể và cá nhân khi để xảy ra sai phạm, kể cả
khi cán bộ đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Quy định số 10-QĐi/TW, ngày
12-12-2018, của Bộ Chính trị, về “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
công tác của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương” đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm
của tập thể cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp tỉnh và của mỗi thành
viên trong tập thể đó. Đồng thời, chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể thuộc thẩm quyền
quyết định của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp tỉnh trên các lĩnh
vực: Phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, công tác đối
ngoại, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; những việc thuộc
thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi thành viên và của người đứng đầu cấp ủy; các
mối quan hệ công tác của cấp ủy và việc xử lý trách nhiệm đối với tập thể và cá
nhân cấp ủy viên khi để xảy ra sai phạm...
Thứ ba, Ban Bí thư khóa XII đã ban hành Quy định số 202-QĐ/TW, ngày
2-8-2019, về “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của cấp ủy,
ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện”, nhằm quy định rõ chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp
ủy cấp huyện và của mỗi thành viên trong tập thể đó; chỉ rõ những nhiệm vụ
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp
huyện trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an
ninh, công tác đối ngoại, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị ở địa phương; những việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi thành viên
và của người đứng đầu cấp ủy cấp huyện; các mối quan hệ công tác của cấp ủy và
việc xử lý trách nhiệm đối với tập thể và cá nhân cấp ủy viên khi để xảy ra sai
phạm... Đối với cấp cơ sở, Ban Bí thư các khóa gần đây đã ban hành các quy định
về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong
các loại hình tổ chức cơ sở đảng để thực hiện, trong đó có 2 quy định đối với
tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; 3 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng
cơ quan; 3 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng đơn vị sự nghiệp; 10 quy định
đối với tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị quân đội; 6 quy định đối với tổ chức cơ
sở đảng trong đơn vị công an; 7 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng trong các
loại hình doanh nghiệp.
Thứ tư, ngoài các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác
của các cấp ủy, tổ chức đảng nêu trên, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư khóa XI, khóa XII đã ban hành các quy định về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các
cấp, với phương châm “cán bộ có chức vụ càng cao, thì càng phải gương mẫu” để
thực hiện và đem lại những kết quả tích cực(3).
Qua thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quy chế... của Trung ương nêu trên, các cấp ủy, tổ chức đảng đã có chuyển biến
tích cực trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách; từng bước xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của tập
thể và cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong quá trình thực thi
nhiệm vụ của mình, bảo đảm sự lãnh đạo của tập thể và đề cao trách nhiệm cá
nhân, hạn chế các sai phạm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc thực hiện nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong thực hiện nhiệm vụ chính trị vẫn
còn một số hạn chế, bất cập và chưa được như mong muốn; vì thế, cần tiếp tục cụ
thể hóa để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong
thời kỳ phát triển mới của đất nước./.
Nguồn:tapchicongsan.vn